Điều tra xu hướng sản xuất kinh doanh (SXKD) hằng quý bao gồm 6.203 doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo và 6.243 doanh nghiệp ngành xây dựng được chọn mẫu điều tra, đại diện cho toàn ngành chế biến, chế tạo và xây dựng của 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Tổng số doanh nghiệp trả lời trong kỳ điều tra quý III/2025 là 6.080 doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo (chiếm 98,0% số doanh nghiệp được chọn mẫu) và 6.044 doanh nghiệp ngành xây dựng (chiếm 96,8% số doanh nghiệp được chọn mẫu). Báo cáo kết quả điều tra xu hướng SXKD gồm hai phần:
Phần I: Xu hướng SXKD ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, phản ánh nhận định của doanh nghiệp về: (1) Tổng quan chung hoạt động SXKD; (2) Biến động của các yếu tố đầu vào (số lượng đơn đặt hàng, lao động, chi phí sản xuất, công suất sử dụng máy móc, thiết bị); (3) Dự kiến kết quả đầu ra (khối lượng sản xuất, giá bán bình quân của một sản phẩm); (4) Biến động tồn kho (tồn kho thành phẩm, tồn kho nguyên vật liệu); (5) Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động SXKD của doanh nghiệp và (6) Kiến nghị của doanh nghiệp.
Phần II: Xu hướng SXKD ngành xây dựng, phản ánh nhận định của doanh nghiệp về: (1) Tổng quan chung hoạt động SXKD; (2) Biến động của các yếu tố đầu vào (lao động, chi phí sản xuất, hợp đồng xây dựng mới, năng lực hoạt động của doanh nghiệp); (3) Vay vốn phục vụ sản xuất kinh doanh; (4) Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động SXKD của doanh nghiệp và (5) Kiến nghị của doanh nghiệp.
PHẦN I. XU HƯỚNG SẢN XUẤT KINH DOANH NGÀNH CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN, CHẾ TẠO
Theo đánh giá của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo hoạt động SXKD quý III/2025 thuận lợi hơn quý II/2025 với 77,8% doanh nghiệp đánh giá hoạt động SXKD quý III/2025 so với quý II/2025 tốt hơn và giữ ổn định (33,6% tốt hơn và 44,2% giữ ổn định), 22,2% doanh nghiệp đánh giá hoạt động SXKD khó khăn hơn[1]. Dự báo quý IV/2025 khả quan hơn quý III/2025 với 82,5% doanh nghiệp đánh giá hoạt động SXKD quý IV/2025 so với quý III/2025 tốt hơn và giữ ổn định (40,8% tốt hơn, 41,7% giữ ổn định), 17,5% doanh nghiệp đánh giá hoạt động SXKD khó khăn hơn.
- 1. Tổng quan chung về hoạt động sản xuất kinh doanh
Đánh giá hoạt động SXKD của doanh nghiệp dựa trên các chỉ số cân bằng[2]. Chỉ số cân bằng chung đánh giá tổng quan xu hướng SXKD của doanh nghiệp, các chỉ số cân bằng thành phần (đơn đặt hàng mới, sử dụng lao động, khối lượng sản xuất và tồn kho thành phẩm) đánh giá về từng hoạt động SXKD cụ thể của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo. Dưới đây là kết quả đánh giá hoạt động SXKD của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo theo chỉ số cân bằng chung và các chỉ số cân bằng thành phần.
1.1. Chỉ số cân bằng chung
Chỉ số cân bằng chung quý III/2025 so với quý II/2025 là 11,4% (33,6% doanh nghiệp đánh giá hoạt động SXKD tốt hơn, 22,2% doanh nghiệp đánh giá hoạt động SXKD khó khăn hơn). Chỉ số cân bằng của khu vực doanh nghiệp FDI cao nhất với 14,7% (34,5% tốt hơn, 19,8% khó khăn hơn); khu vực doanh nghiệp nhà nước 14,5% (36,4% tốt hơn, 21,9% khó khăn hơn); khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước 9,7% (33,0% tốt hơn, 23,3% khó khăn hơn).
Chỉ số cân bằng chung quý IV/2025 so với quý III/2025 là 23,3% (40,8% doanh nghiệp dự báo hoạt động SXKD tốt hơn, 17,5% doanh nghiệp dự báo hoạt động SXKD khó khăn hơn). Chỉ số cân bằng khu vực doanh nghiệp nhà nước cao nhất với 25,9% (45,4% tốt hơn, 19,5% khó khăn hơn); khu vực doanh nghiệp FDI 23,7% (40,5% tốt hơn, 16,8% khó khăn hơn); khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước 23,0% (40,6% tốt hơn, 17,6% khó khăn hơn).
1.2. Chỉ số cân bằng đơn đặt hàng mới
Chỉ số cân bằng đơn đặt hàng mới quý III/2025 so với quý II/2025 là 8,5% (31,1% doanh nghiệp nhận định đơn đặt hàng mới tăng, 22,6% doanh nghiệp nhận định đơn đặt hàng mới giảm). Trong đó, chỉ số cân bằng của khu vực doanh nghiệp nhà nước là 10,4%; khu vực doanh nghiệp FDI 10,3% khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước 7,5%;
Chỉ số cân bằng đơn đặt hàng mới quý IV/2025 so với quý III/2025 là 21,6% (38,0% doanh nghiệp dự báo tăng và 16,4% doanh nghiệp dự báo giảm); khu vực doanh nghiệp nhà nước có chỉ số cân bằng đạt cao nhất với 24,2%; khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước 21,5% và khu vực doanh nghiệp FDI 21,2%.
1.3. Chỉ số cân bằng sử dụng lao động
Chỉ số cân bằng sử dụng lao động quý III/2025 so với quý II/2025 là -2,9% (13,2% doanh nghiệp nhận định lao động tăng, 16,1% doanh nghiệp nhận định lao động giảm). Chỉ số cân bằng của khu vực doanh nghiệp FDI cao nhất với 1,3% (19,4% tăng, 18,1% giảm); khu vực doanh nghiệp nhà nước -4,3% (10,9% tăng, 15,2% giảm); khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước -4,8% (10,4% tăng, 15,2% giảm).
Chỉ số cân bằng sử dụng lao động quý IV/2025 so với quý III/2025 là 5,6% (16,5% tăng và 10,9% giảm); khu vực doanh nghiệp FDI có chỉ số cân bằng cao nhất với 9,9%; khu vực doanh nghiệp nhà nước 4,3% và khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước 3,6%.
1.4. Chỉ số cân bằng khối lượng sản xuất
Chỉ số cân bằng khối lượng sản xuất quý III/2025 so với quý II/2025 là 12,2% (35,0% doanh nghiệp nhận định khối lượng sản xuất tăng; 22,8% doanh nghiệp nhận định khối lượng sản xuất giảm). Chỉ số cân bằng của khu vực doanh nghiệp nhà nước cao nhất với 18,8% (38,7% nhận định tăng, 19,9% nhận định giảm); khu vực doanh nghiệp FDI với 14,7% (36,1% nhận định tăng, 21,4% nhận định giảm); thấp nhất là khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước với 10,4% (34,2% tăng, 23,8% giảm).
Chỉ số cân bằng khối lượng sản xuất quý IV/2025 so với quý III/2025 là 23,2% (39,9% doanh nghiệp dự báo tăng, 16,7% doanh nghiệp dự báo giảm); khu vực doanh nghiệp nhà nước có chỉ số cân bằng đạt cao nhất với 26,4%; khu vực doanh nghiệp FDI 24,5% và khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước 22,4%.
1.5. Chỉ số cân bằng tồn kho thành phẩm
Chỉ số cân bằng tồn kho thành phẩm quý III/2025 so với quý II/2025 là -10,9% (17,5% doanh nghiệp nhận định tăng và 28,4% doanh nghiệp nhận định giảm). Chỉ số cân bằng ở khu vực doanh nghiệp FDI là -5,0% (21,1% tăng, 26,1% giảm); khu vực doanh nghiệp nhà nước -8,6% (21,2% tăng, 29,8% giảm); khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước -13,9% (15,5% tăng, 29,4% giảm).
Chỉ số cân bằng tồn kho thành phẩm quý IV/2025 so với quý III/2025 là -13,2% (15,0% tăng, 28,2% giảm); khu vực doanh nghiệp FDI -6,5%; khu vực doanh nghiệp nhà nước -12,9% và khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước -16,4%.
- Biến động của các yếu tố đầu vào
2.1. Số lượng đơn đặt hàng
Theo kết quả khảo sát quý III/2025, có 77,4% doanh nghiệp nhận định số lượng đơn đặt hàng mới tăng và giữ nguyên so với quý II/2025 (31,1% tăng, 46,3% giữ nguyên); 22,6% doanh nghiệp nhận định số lượng đơn đặt hàng mới giảm[3].
Theo ngành kinh tế, ngành sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học có tỷ lệ doanh nghiệp nhận định đơn đặt hàng mới quý III/2025 so với quý II/2025 tăng cao nhất với 43,8%. Ngược lại, ngành in, sao chép bản ghi các loại có tỷ lệ doanh nghiệp nhận định đơn đặt hàng giảm nhiều nhất với 35,5%.
Dự báo số lượng đơn đặt hàng mới quý IV/2025 so với quý III/2025 tăng với 83,6% doanh nghiệp dự báo tăng và giữ nguyên (38,0% tăng, 45,6% giữ nguyên), 16,4% doanh nghiệp dự báo số lượng đơn đặt hàng mới giảm.
Đơn đặt hàng xuất khẩu
Trong số các doanh nghiệp được khảo sát, có 77,4% doanh nghiệp nhận định số lượng đơn đặt hàng xuất khẩu mới quý III/2025 tăng và giữ nguyên so với quý II/2025 (26,2% tăng, 51,2% giữ nguyên), tỷ lệ doanh nghiệp nhận định có đơn đặt hàng xuất khẩu mới giảm là 22,6%[4].
Theo ngành kinh tế, ngành công nghiệp chế biến chế tạo khác nhận định đơn đặt hàng xuất khẩu mới quý III/2025 so với quý II/2025 tăng cao nhất với 41,4%. Ngược lại, ngành chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa (từ giường, tủ, bàn, ghế) có tỷ lệ doanh nghiệp nhận định đơn đặt hàng xuất khẩu mới giảm nhiều nhất với 32,5%.
Các doanh nghiệp dự báo số lượng đơn đặt hàng xuất khẩu mới quý IV/2025 khả quan hơn với 83,5% doanh nghiệp dự báo tăng và giữ nguyên so với quý III/2025 (32,3% tăng, 51,2% giữ nguyên); 16,5% doanh nghiệp dự báo giảm.
2.2. Sử dụng lao động
Quý III/2025 có 13,2% doanh nghiệp nhận định sử dụng lao động tăng so với quý II/2025; 70,7% doanh nghiệp nhận định giữ nguyên và 16,1% doanh nghiệp nhận định giảm[5].
Theo ngành kinh tế, ngành sản xuất điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học có tỷ lệ doanh nghiệp nhận định lao động quý III/2025 so với quý II/2025 tăng cao nhất với 36,4%. Ngược lại, ngành sản xuất trang phục nhận định lao động quý III/2025 so với quý II/2025 giảm nhiều nhất với 26,2%.
Dự báo sử dụng lao động quý IV/2025 khả quan hơn quý III/2025 với 89,1% số doanh nghiệp dự kiến số lao động tăng và giữ nguyên (16,5% tăng, 72,6% giữ nguyên); 10,9% doanh nghiệp dự kiến lao động giảm.
2.3. Chi phí sản xuất
Kết quả khảo sát cho thấy, quý III/2025 có 92,7% doanh nghiệp nhận định chi phí sản xuất một đơn vị sản phẩm tăng và giữ nguyên (26,2% tăng, 66,5% giữ nguyên); 7,3% doanh nghiệp nhận định giảm[6] so với quý II/2025.
Theo ngành kinh tế, ngành sản xuất xe có động cơ có tỷ lệ doanh nghiệp nhận định chi phí sản xuất một đơn vị sản phẩm quý III/2025 so với quý II/2025 tăng cao nhất với 31,8%. Ngược lại, ngành sản xuất kim loại có tỷ lệ doanh nghiệp nhận định chi phí sản xuất một đơn vị sản phẩm quý III/2025 so với quý II/2025 giảm nhiều nhất với 10,9%.
Dự báo quý IV/2025 so với quý III/2025, có 91,8% doanh nghiệp dự báo chi phí sản xuất một đơn vị sản phẩm tăng và giữ nguyên (22,3% tăng, 69,5% giữ nguyên), 8,2% doanh nghiệp dự báo chi phí sản xuất một đơn vị sản phẩm giảm.
2.4. Công suất sử dụng máy móc, thiết bị
Trong quý III/2025, công suất sử dụng máy móc, thiết bị bình quân của các doanh nghiệp ngành chế biến, chế tạo là 74,7%[7]. Có 43,0% doanh nghiệp đánh giá công suất sử dụng máy móc, thiết bị từ 70% đến dưới 90%; 30,9% doanh nghiệp đánh giá công suất sử dụng từ 90% đến 100%; 16,7% doanh nghiệp đánh giá công suất sử dụng từ 50% đến dưới 70% và 9,4% doanh nghiệp đánh giá công suất sử dụng dưới 50%.
Theo ngành kinh tế, quý III/2025, ngành sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học là ngành có công suất sử dụng máy móc thiết bị bình quân cao nhất với 81,2%. Ngành sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc và thiết bị có tỷ lệ doanh nghiệp đánh giá công suất sử dụng máy móc thiết bị bình quân thấp nhất với 68,1%.
- Dự kiến kết quả đầu ra
3.1. Khối lượng sản xuất
Kết quả khảo sát quý III/2025, có 77,2% doanh nghiệp đánh giá khối lượng sản xuất tăng và giữ nguyên so với quý II/2025 (35,0% tăng, 42,2% giữ nguyên), 22,8% doanh nghiệp đánh giá khối lượng sản xuất giảm[8].
Theo ngành kinh tế, ngành sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học có tỷ lệ doanh nghiệp nhận định khối lượng sản xuất quý III/2025 so với quý II/2025 tăng cao nhất với 49,1%. Ngược lại, ngành in, sao chép bản ghi các loại có tỷ lệ doanh nghiệp nhận định khối lượng sản xuất giảm nhiều nhất với 33,5%.
Khối lượng sản xuất quý IV/2025 so với quý III/2025 khả quan hơn với 83,3% doanh nghiệp dự báo tăng và giữ nguyên (39,9% tăng, 43,4% giữ nguyên), 16,7% doanh nghiệp dự báo khối lượng sản xuất giảm.
3.2. Giá bán bình quân một đơn vị sản phẩm
Tỷ lệ doanh nghiệp cho biết giá bán bình quân một đơn vị sản phẩm quý III/2025 so với quý II/2025 tăng và giữ nguyên là 91,0% (14,6% tăng, 76,4% giữ nguyên), 9,0% doanh nghiệp cho biết giá bán bình quân một đơn vị sản phẩm giảm[9].
Theo ngành kinh tế, ngành sản xuất kim loại có tỷ lệ doanh nghiệp nhận định giá bán bình quân một đơn vị sản phẩm quý III/2025 so với quý II/2025 tăng cao nhất với 22,5%. Ngược lại, ngành sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy nhận định giá bán bình quân một đơn vị sản phẩm giảm nhiều nhất với 13,0%.
Nhận định về giá bán bình quân một đơn vị sản phẩm quý IV/2025 so với quý III/2025, có 91,8% doanh nghiệp dự báo tăng và giữ nguyên (16,1% tăng, 75,7% giữ nguyên), 8,2% doanh nghiệp dự báo giảm.
- Biến động tồn kho
4.1. Tồn kho thành phẩm
Theo kết quả khảo sát, có 17,5% doanh nghiệp nhận định khối lượng thành phẩm tồn kho quý III/2025 tăng so với quý II/2025; 54,1% doanh nghiệp đánh giá giữ nguyên và 28,4% đánh giá giảm[10].
Theo ngành kinh tế, ngành sản xuất xe có động cơ có tỷ lệ doanh nghiệp nhận định tồn kho thành phẩm quý III/2025 so với quý II/2025 tăng cao nhất với 29,9%. Ngược lại, ngành sản xuất trang phục có tỷ lệ doanh nghiệp nhận định tồn kho thành phẩm quý III/2025 so với quý II/2025 giảm nhiều nhất với 33,3%.
Dự báo quý IV/2025 so với quý III/2025, có 15,0% doanh nghiệp dự báo khối lượng tồn kho thành phẩm tăng; 56,8% doanh nghiệp dự báo giữ nguyên khối lượng tồn kho thành phẩm; 28,2% doanh nghiệp dự báo khối lượng tồn kho thành phẩm giảm.
4.2. Tồn kho nguyên vật liệu
Kết quả khảo sát cho thấy, có 72,6% doanh nghiệp nhận định tồn kho nguyên vật liệu quý III/2025 so với quý II/2025 tăng và giữ nguyên (16,9% tăng, 55,7% giữ nguyên), 27,4% doanh nghiệp nhận định giảm[11].
Dự báo quý IV/2025 so với quý III/2025, có 14,7% doanh nghiệp đánh giá khối lượng tồn kho nguyên vật liệu tăng, 57,5% doanh nghiệp đánh giá giữ nguyên và 27,8% doanh nghiệp dự kiến giảm khối lượng tồn kho nguyên vật liệu.
Khái quát lại, hoạt động SXKD của doanh nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo quý III/2025 tốt hơn so với quý II/2025, chỉ số cân bằng khu vực doanh nghiệp FDI là 14,7%, khu vực doanh nghiệp nhà nước là 14,5% và khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước là 9,7%. Dự báo quý IV/2025 lạc quan hơn quý III/2025 với chỉ số cân bằng khu vực doanh nghiệp quý IV/2025 tăng 11,9 điểm phần trăm so với quý III/2025, trong đó doanh nghiệp ngoài nhà nước khả quan nhất với chỉ số cân bằng xu hướng SXKD tăng 13,3 điểm phần trăm so với quý III/2025.
Ngành sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học, tiếp tục tăng trưởng theo đà tăng từ các quý trước, tỷ lệ doanh nghiệp nhận định khối lượng sản xuất, sử dụng lao động, đơn đặt hàng mới và đơn đặt hàng xuất khẩu quý III/2025 tăng so với quý II/2025 lần lượt là 49,1%; 36,4%; 43,8% và 37,4%. Đây cũng là cũng là ngành có tỷ lệ sử dụng công suất máy móc thiết bị cao nhất với 81,2%.
Ngành sản xuất chế biến thực phẩm có tỷ lệ doanh nghiệp nhận định khối lượng sản xuất và đơn đặt hàng quý III/2025 tăng khá cao so với quý II/2025 lần lượt là 42,3% và 37,7%.
Một số ngành có dấu hiệu phục hồi so với với các quý trước, cụ thể: Ngành dệt có tỷ lệ doanh nghiệp nhận định đơn đặt hàng xuất khẩu quý III/2025 tăng 35,0% so với quý II/2025; Ngành sản xuất da và các sản phẩm có liên quan có tỷ lệ doanh nghiệp nhận định khối lượng sản xuất quý III/2025 tăng 40,6% so với quý II/2025. Tuy nhiên, ngành sản xuất da và các sản phẩm có liên quan vẫn còn một số khó khăn như tỷ lệ doanh nghiệp nhận định sử dụng lao động và tồn kho nguyên vật liệu quý III/2025 giảm so với quý II/2025 lần lượt là 22,8% và 32,8%.
Bên cạnh đó, ngành sản xuất phương tiện vận tải khác có xu hướng khó khăn hơn quý trước, cụ thể: tỷ lệ doanh nghiệp nhận định khối lượng sản xuất và đơn đặt hàng mới quý III/2025 giảm so với quý II/2025 lần lượt là 32,1% và 34,0%.
- Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động SXKD của doanh nghiệp
Trong quý III/2025, ba khó khăn lớn nhất của doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo vẫn là việc tìm kiếm và mở rộng thị trường đầu ra cho sản phẩm. Cụ thể: có 50,0% doanh nghiệp gặp khó khăn do sự cạnh tranh của các hàng hóa trong nước ngày càng cao; 49,5% doanh nghiệp gặp khó khăn do nhu cầu thị trường trong nước vẫn ở mức thấp và 30,2% doanh nghiệp gặp khó khăn do nhu cầu hàng hóa tại các thị trường quốc tế vẫn chưa phục hồi như kỳ vọng.
Theo ngành kinh tế, một số ngành bị ảnh hưởng bởi ba yếu tố khó khăn lớn nhất gồm:
Ngành sản xuất đồ uống có tỷ lệ doanh nghiệp nhận định các yếu tố tính cạnh tranh của hàng trong nước cao và nhu cầu thị trường trong nước thấp ảnh hưởng đến SXKD của doanh nghiệp trong quý III/2025 lần lượt là 72,7% và 69,1%.
Ngành dệt có tỷ lệ doanh nghiệp nhận định các yếu tố nhu cầu thị trường trong nước thấp, tính cạnh tranh của hàng trong nước cao và nhu cầu thị trường quốc tế thấp ảnh hưởng đến SXKD của doanh nghiệp tron quý III/2025 lần lượt là: 62,2%; 48,7% và 46,7%.
Ngành sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác nhận định yếu tố tính cạnh tranh của hàng trong nước cao và nhu cầu thị trường trong nước thấp ảnh hưởng đến SXKD của doanh nghiệp trong quý III/2025 lần lượt là 67,6% và 60,1%.
Theo địa phương, 17/34 địa phương có tỷ lệ doanh nghiệp đánh giá hoạt động SXKD của doanh nghiệp bị ảnh hưởng do tính cạnh tranh của hàng trong nước cao cao hơn tỷ lệ chung của toàn quốc (50,0%). 20/34 địa phương có tỷ lệ doanh nghiệp đánh giá hoạt động SXKD của doanh nghiệp bị ảnh hưởng do nhu cầu thị trường trong nước thấp cao hơn tỷ lệ chung của toàn quốc (49,5%). 15/34 địa phương có tỷ lệ doanh nghiệp đánh giá hoạt động SXKD của doanh nghiệp bị ảnh hưởng do nhu cầu thị trường quốc tế thấp cao hơn tỷ lệ chung của toàn quốc (32,2%)
Một số địa phương có tỷ lệ doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi ba yếu tố khó khăn lớn nhất gồm:
Hà Nội có tỷ lệ doanh nghiệp nhận định nhu cầu thị trường trong nước thấp và tính cạnh tranh của hàng trong nước cao ảnh hưởng đến SXKD quý III/2025 lần lượt là: 53,8% và 59,8%.
Ninh Bình có tỷ lệ doanh nghiệp nhận định nhu cầu thị trường trong nước thấp, tính cạnh tranh của hàng trong nước cao và nhu cầu thị trường quốc tế thấp ảnh hưởng đến SXKD quý III/2025 lần lượt là: 56,1%; 50,0% và 39,0%.
Đồng Nai và TP.Hồ Chí Minh có tỷ lệ doanh nghiệp nhận định nhu cầu thị trường quốc tế thấp và tín cạnh tranh của hàng trong nước cao ảnh hưởng đến SXKD quý III/2025 lần lượt là: 40,1% và 36,3%.
- Kiến nghị của doanh nghiệp
Trong thời gian qua, Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương đã có nhiều giải pháp hiệu quả hỗ trợ doanh nghiệp, để giúp doanh nghiệp phát triển SXKD hiệu quả hơn nữa, các doanh nghiệp kiến nghị:
Có 36,5% doanh nghiệp kiến nghị các ngân hàng tiếp tục giảm lãi suất cho vay. Mặc dù đề xuất giảm lãi suất cho vay vẫn được nhiều doanh nghiệp kiến nghị nhất, tuy nhiên tỷ lệ này đã giảm liên tục hai quý liên tiếp, quý III/2025 đã giảm 2,3 điểm phần trăm so với quý trước; quý II/2025 đã giảm 1,7 điểm phần trăm so với quý trước. Có 31,8% doanh nghiệp kiến nghị Nhà nước có các biện pháp bình ổn giá nguyên vật liệu, năng lượng, giảm nhẹ 0,4 điểm phần trăm so với quý II/2025. Có 25,5% doanh nghiệp mong có nguồn cung nguyên vật liệu ổn định, tăng nhẹ 0,2 điểm phần trăm so với quý trước.
Theo địa phương, 18/34 địa phương có tỷ lệ doanh nghiệp kiến nghị các ngân hàng giảm lãi suất cho vay, 23/34 địa phương có tỷ lệ doanh nghiệp kiến nghị Nhà nước có các biện pháp bình ổn giá nguyên vật liệu, năng lượng và 22/34 địa phương có tỷ lệ doanh nghiệp mong có nguồn cung nguyên vật liệu ổn định cao hơn tỷ lệ chung của toàn quốc. Cụ thể:
Hà Nội có tỷ lệ doanh nghiệp kiến nghị giảm lãi suất cho vay, bình ổn giá nguyên vật liệu, năng lượng và ổn định nguồn cung nguyên vật liệu lần lượt là 50,8%; 31,7% và 26,7%.
Hưng Yên có tỷ lệ doanh nghiệp kiến nghị giảm lãi suất cho vay, bình ổn giá nguyên vật liệu, năng lượng và ổn định nguồn cung nguyên vật liệu lần lượt là 39,1%; 37,0% và 33,3%.
Bắc Ninh có tỷ lệ doanh nghiệp kiến nghị giảm lãi suất cho vay, bình ổn giá nguyên vật liệu, năng lượng và ổn định nguồn cung nguyên vật liệu lần lượt là 40,0%; 35,8% và 32,8%
Ninh Bình có tỷ lệ doanh nghiệp kiến nghị giảm lãi suất cho vay, bình ổn giá nguyên vật liệu, năng lượng và ổn định nguồn cung nguyên vật liệu lần lượt là 36,9%; 39,5% và 30,8%
PHẦN II. XU HƯỚNG SẢN XUẤT KINH DOANH NGÀNH XÂY DỰNG
Hoạt động SXKD của các doanh nghiệp xây dựng quý III/2025 được nhận định khó khăn hơn quý II/2025 với 26,1% doanh nghiệp nhận định thuận lợi hơn; 42,5% doanh nghiệp nhận định giữ ổn định và 31,5% doanh nghiệp nhận định khó khăn hơn[12]. Dự báo quý IV/2025 so với quý III/2025 thuận lợi hơn với 27,8% doanh nghiệp dự báo thuận lợi hơn; 43,8% nhận định giữ ổn định và 28,4% dự báo khó khăn hơn.
- Tổng quan chung về hoạt động sản xuất kinh doanh
Đánh giá hoạt động SXKD của doanh nghiệp xây dựng dựa trên các chỉ số cân bằng. Chỉ số cân bằng chung đánh giá tổng quan xu hướng SXKD của doanh nghiệp, các chỉ số cân bằng thành phần (hợp đồng xây dựng mới, vay vốn phục vụ SXKD, chi phí sản xuất, sử dụng lao động) đánh giá về từng hoạt động SXKD cụ thể của các doanh nghiệp xây dựng.
1.1. Chỉ số cân bằng chung
Chỉ số cân bằng xu hướng SXKD ngành xây dựng quý III/2025 so với quý II/2025[13] là -5,3% (26,1% doanh nghiệp nhận định hoạt động SXKD thuận lợi hơn và 31,4% doanh nghiệp nhận định hoạt động SXKD khó khăn hơn).
Dự báo quý IV/2025 so với quý III/2025 thuận lợi hơn với với chỉ số cân bằng là -0,6% (27,8% doanh nghiệp nhận định thuận lợi hơn và 28,4% doanh nghiệp nhận định khó khăn hơn).
1.2. Chỉ số cân bằng hợp đồng xây dựng mới
Chỉ số cân bằng hợp đồng xây dựng mới quý III/2025 so với quý II/2025 là -1,6% (23,5% doanh nghiệp nhận định tăng; 25,1% doanh nghiệp nhận định giảm). Chỉ số cân bằng hợp đồng xây dựng mới quý IV/2025 so với quý III/2025 là 6,7% (27,3% doanh nghiệp dự báo tăng; 20,6% doanh nghiệp dự báo giảm).
Theo ngành kinh tế, quý III/2025 so với quý II/2025, doanh nghiệp xây dựng công trình kỹ thuật dân dụng[14] có chỉ số cân bằng hợp đồng xây dựng mới khả quan nhất với 0,9%; doanh nghiệp hoạt động xây dựng nhà các loại[15] -3,1%; doanh nghiệp hoạt động xây dựng chuyên dụng[16] -2,7%. Quý IV/2025, các doanh nghiệp xây dựng công trình kỹ thuật dân dụng dự báo chỉ số cân bằng hợp đồng xây dựng mới so với quý III/2025 cao nhất với 11,1%; doanh nghiệp xây dựng nhà các loại 4,4% và doanh nghiệp hoạt động xây dựng chuyên dụng 4,9%.
1.3. Chỉ số cân bằng về vay vốn phục vụ sản xuất kinh doanh
Chỉ số cân bằng về vay vốn phục vụ SXKD quý III/2025 so với quý II/2025 là -3,8% (17,2% doanh nghiệp dự báo tăng và 21,0% dự báo giảm)[17]. Dự báo quý IV/2025 so với quý III/2025 thuận lợi hơn với -3,0% (16,6% doanh nghiệp dự báo tăng và 19,6% dự báo giảm).
1.4. Các chỉ số cân bằng chi phí sản xuất
Chỉ số cân bằng tổng chi phí cho hoạt động xây dựng quý III/2025 so với quý II/2025 là 28,8% (46,4% doanh nghiệp dự báo tăng và 17,6% doanh nghiệp dự báo giảm)[18]. Dự báo quý IV/2025 so với quý III/2025 chỉ số cân bằng tăng với 33,2% (46,1% doanh nghiệp dự báo tăng và 12,9% doanh nghiệp dự báo giảm).
Chỉ số cân bằng chi phí nguyên vật liệu trực tiếp quý III/2025 so với quý II/2025 là 34,5% (50,3% doanh nghiệp dự báo tăng và 15,8% dự báo giảm)[19]. Dự báo quý IV/2025 so với quý III/2025 tăng với 37,0% (48,7% doanh nghiệp dự báo tăng và 11,7% dự báo giảm).
Chỉ số cân bằng chi phí nhân công trực tiếp quý III/2025 so với quý II/2025 là 25,4% (41,0% doanh nghiệp dự báo tăng và 15,6% dự báo giảm)[20]. Dự báo quý IV/2025 so với quý III/2025 tăng với 29,9% (41,1% doanh nghiệp dự báo tăng và 11,2% dự báo giảm).
1.5. Các chỉ cố cân bằng sử dụng lao động
Chỉ số cân bằng sử dụng lao động chung quý III/2025 so với quý II/2025 là 2,4% (21,7% doanh nghiệp dự báo tăng và 19,3% dự báo giảm)[21]. Dự báo quý IV/2025 so với quý III/2025 tăng với 11,5% (24,8% doanh nghiệp dự báo tăng và 13,3% dự báo giảm).
Chỉ số cân bằng sử dụng lao động thường xuyên quý III/2025 so với quý II/2025 là -0,6% (10,9% doanh nghiệp dự báo tăng và 11,5% dự báo giảm)[22]. Dự báo quý IV/2025 so với quý III/2025 tăng với 3,9% (12,3% doanh nghiệp dự báo tăng và 8,4% dự báo giảm).
Chỉ số cân bằng sử dụng lao động thời vụ quý III/2025 so với quý II/2025 là 0,1% (19,3% doanh nghiệp dự báo tăng và 19,2% dự báo giảm)[23]. Dự báo quý IV/2025 so với quý III/2025 tăng với 8,3% (22,9% doanh nghiệp dự báo tăng và 14,6% dự báo giảm).
- Biến động của các yếu tố đầu vào
2.1. Sử dụng lao động
Kết quả khảo sát quý III/2025 cho thấy, có 21,7% doanh nghiệp nhận định lao động trong doanh nghiệp tăng so với quý II/2025; 59,0% doanh nghiệp nhận định lao động không đổi và 19,3% doanh nghiệp nhận định lao động giảm[24].
Dự báo quý IV/2025 so với quý III/2025 có 24,8% doanh nghiệp nhận lao định lao động tăng; 61,9% doanh nghiệp nhận định không đổi và 13,3% doanh nghiệp nhận định lao động giảm.
Lao động thường xuyên
Quý III/2025 có 10,9% doanh nghiệp nhận định lao động thường xuyên tăng so với quý II/2025; 77,6% doanh nghiệp nhận định không đổi và 11,5% doanh nghiệp nhận định giảm. Dự báo quý IV/2025, có 12,3% doanh nghiệp nhận định lao động thường xuyên tăng so với quý III/2025; 79,3% doanh nghiệp nhận định không đổi và 8,4% doanh nghiệp nhận định giảm.
Lao động thời vụ
Theo kết quả khảo sát, quý III/2025 có 19,3% doanh nghiệp nhận định lao động thời vụ tăng so với quý II/2025; 61,5% doanh nghiệp nhận định không đổi và 19,2% doanh nghiệp nhận định giảm. Dự báo quý IV/2025, có 22,9% doanh nghiệp nhận định lao động thời vụ tăng so với quý III/2025; 62,5% doanh nghiệp nhận định không đổi và 14,6% doanh nghiệp nhận định giảm.
2.2. Chi phí sản xuất
Quý III/2025, có 46,4% doanh nghiệp nhận định tổng chi phí sản xuất trên một đơn vị sản phẩm tăng so với quý II/2025; 36,0% doanh nghiệp nhận định không thay đổi; 17,6% doanh nghiệp nhận định tổng chi phí sản xuất trên một đơn vị sản phẩm giảm[25].
Dự báo quý IV/2025 so với quý III/2025 có 46,1% doanh nghiệp dự báo tổng chi phí sản xuất trên một đơn vị sản phẩm tăng; 41,0% doanh nghiệp dự báo không đổi và 12,9% doanh nghiệp dự báo tổng chi phí sản xuất trên một đơn vị sản phẩm giảm.
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Kết quả khảo sát cho thấy trong quý III/2025, có 50,3% doanh nghiệp nhận định chi phí nguyên vật liệu trực tiếp tăng so với quý II/2025; 33,9% doanh nghiệp nhận định không đổi và 15,8% doanh nghiệp nhận định giảm. Dự báo quý IV/2025, có 48,7% doanh nghiệp dự báo chi phí nguyên vật liệu trực tiếp tăng so với quý II/2025; 39,6% doanh nghiệp nhận định không đổi và 11,7% doanh nghiệp dự báo giảm.
Chi phí nhân công trực tiếp
Quý III/2025, có 41,0% doanh nghiệp nhận định chi phí nhân công trực tiếp tăng; 43,4% doanh nghiệp nhận định chi phí nhân công trực tiếp không đổi và 15,6% doanh nghiệp nhận định chi phí nhân công trực tiếp giảm so với quý II/2025. Quý IV/2025, có 41,1% doanh nghiệp dự báo chi phí nhân công trực tiếp tăng so với quý III/2025; 47,7% doanh nghiệp nhận định không đổi; 11,2% doanh nghiệp dự báo chi phí nhân công trực tiếp giảm.
2.3. Hợp đồng xây dựng mới
Quý III/2025, có 74,9% doanh nghiệp nhận định số lượng hợp đồng xây dựng mới tăng và không đổi so với quý II/2025 (23,5% doanh nghiệp nhận định tăng; 51,4% doanh nghiệp nhận định không đổi); có 25,1% doanh nghiệp nhận định số lượng hợp đồng xây dựng mới giảm[26].
Dự báo quý IV/2025, các doanh nghiệp nhận định hợp đồng xây dựng mới nhiều hơn quý III/2025 với 79,4% doanh nghiệp nhận định tăng và không đổi (27,3% doanh nghiệp nhận định tăng; 52,1% doanh nghiệp nhận định không thay đổi); 20,6% doanh nghiệp nhận định số lượng hợp đồng xây dựng mới giảm.
2.4. Năng lực hoạt động của doanh nghiệp
Kết quả khảo sát quý III/2025 cho thấy, có 18,9% doanh nghiệp đánh giá hoạt động dưới 50% năng lực thực tế của doanh nghiệp; 32,7% doanh nghiệp đánh giá năng lực hoạt động từ 50% đến dưới 70% năng lực thực tế; 27,7% doanh nghiệp đánh giá năng lực hoạt động từ 70% đến dưới 90%; 18,3% doanh nghiệp đánh giá năng lực hoạt động từ 90 đến 100%; 2,4% doanh nghiệp đánh giá doanh nghiệp hoạt động trên 100% năng lực thực tế của doanh nghiệp.
- Vay vốn phục vụ sản xuất kinh doanh
Kết quả khảo sát quý III/2025 cho thấy, có 75,8% doanh nghiệp vay vốn cho hoạt động SXKD[27]. Trong số các doanh nghiệp có vay vốn, 76,1% doanh nghiệp vay ngân hàng; 12,2% doanh nghiệp vay người thân, bạn bè; 7,0% doanh nghiệp vay tổ chức tín dụng khác; 3,2% doanh nghiệp vay nhân viên ngân hàng, tổ chức tín dụng không qua thủ tục chính thức; 1,5% doanh nghiệp vay từ các nguồn khác. Trong số các doanh nghiệp có vay vốn ngân hàng phục vụ SXKD, chỉ có 34,4% doanh nghiệp tiếp cận được các khoản vay ưu đãi; 65,6% doanh nghiệp không tiếp cận được các nguồn vay ưu đãi[28].
Nhận định về tình hình vay vốn cho hoạt động SXKD, có 17,2% doanh nghiệp nhận định vay vốn quý III/2025 thuận lợi hơn quý II/2025, 61,8% doanh nghiệp nhận định không thay đổi, 21,0% doanh nghiệp nhận định vay vốn khó khăn hơn. Dự báo quý IV/2025, có 16,6% doanh nghiệp nhận định vay vốn thuận lợi hơn quý III/2025, 63,8% doanh nghiệp nhận định không thay đổi, 19,6% doanh nghiệp nhận định vay vốn khó khăn hơn.
- Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động SXKD của doanh nghiệp
Theo kết quả khảo sát quý III/2025, yếu tố ảnh hưởng nhiều nhất đến hoạt động SXKD của doanh nghiệp là “giá nguyên vật liệu tăng cao” với 55,0% số doanh nghiệp nhận định, thứ hai là “không có hợp đồng xây dựng mới” có ảnh hưởng tới 45,1% doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, một số yếu tố đầu vào khác có ảnh hưởng tới hoạt động SXKD của doanh nghiệp xây dựng như:
– Về nguồn vốn: có 20,7% doanh nghiệp khó khăn do thiếu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh; 25,9% doanh nghiệp khó khăn do nợ đọng xây dựng cơ bản không được thanh quyết toán đúng kỳ hạn làm ảnh hưởng rất lớn tới dòng tiền của doanh nghiệp.
– Về lao động: có 15,6% doanh nghiệp khó khăn do không tuyển được lao động theo yêu cầu. Nguyên nhân chủ yếu do nguồn lao động chưa đáp ứng được kỹ năng chuyên môn và yêu cầu công nghệ mới, trong khi nhiều ứng viên lại đặt kỳ vọng về lương thưởng và phúc lợi vượt quá khả năng chi trả. Bên cạnh đó, cạnh tranh nhân sự gay gắt với các tập đoàn lớn và doanh nghiệp FDI khiến lao động chất lượng có xu hướng dịch chuyển sang nơi có chế độ tốt hơn. Không ít doanh nghiệp còn gặp hạn chế ở chính sách phúc lợi, môi trường làm việc và quy trình tuyển dụng thiếu linh hoạt, làm giảm sức hút đối với ứng viên.
– Về nguồn cung nguyên vật liệu xây dựng: có 20,4% doanh nghiệp khó khăn do thiếu nguồn cung nguyên vật liệu xây dựng như: không có sự ổn định về giá, không cung cấp kịp thời nguyên vật liệu cho công trình.
Một số yếu tố khách quan ảnh hưởng tới hoạt động SXKD của doanh nghiệp xây dựng, cụ thể: có 23,6% doanh nghiệp khó khăn do điều kiện thời tiết không thuận lợi; 18,5% doanh nghiệp khó khăn do thủ tục hành chính rườm rà, phức tạp; 17,4% doanh nghiệp khó khăn do công tác giải phóng mặt bằng chậm; 10,8% doanh nghiệp khó khăn do không biết đến các thông tin đấu thầu nên làm giảm cơ hội ký kết thêm các hợp đồng xây dựng mới.
Về năng lực của doanh nghiệp, có 25,8% doanh nghiệp khó khăn do năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp còn hạn chế, ảnh hưởng tới việc đấu thầu và ký kết các hợp đồng xây dựng mới.
- Kiến nghị của doanh nghiệp
Để tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho hoạt động SXKD, doanh nghiệp, nhà thầu xây dựng kiến nghị Chính phủ, Bộ, ngành, địa phương hỗ trợ doanh nghiệp, Cụ thể: (1) Có 53,9% doanh nghiệp đề nghị được hỗ trợ về nguyên vật liệu xây dựng; (2) 40,3% doanh nghiệp đề nghị được hỗ trợ về vốn cho SXKD như được vay vốn ưu đãi, thủ tục vay vốn thuận lợi và nhanh chóng hơn, giảm lãi suất cho vay; (3) 40,0% doanh nghiệp đề nghị công khai, minh bạch các thông tin về đấu thầu; (4) 35,5% doanh nghiệp đề nghị tiếp tục cắt giảm thủ tục hành chính, tạo điều kiện cho doanh nghiệp rút ngắn thời gian xử lý thủ tục hành chính; (5) 28,2% doanh nghiệp đề nghị phải có chế tài xử phạt các chủ đầu tư chậm thanh quyết toán nợ đọng xây dựng cơ bản để doanh nghiệp xây dựng quay vòng vốn cho hoạt động SXKD; (6) 26,7% doanh nghiệp đề nghị được bàn giao mặt bằng
sạch đúng kế hoạch để đảm bảo thời gian thi công đúng hợp đồng đã ký kết.
Ngoài các nhóm kiến nghị trên, các doanh nghiệp, nhà thầu xây dựng kiến nghị Chính phủ, Bộ, ngành, địa phương:
Thứ nhất, giá nguyên vật liệu xây dựng tăng cao tiếp tục là yếu tố ảnh hưởng lớn nhất đến hoạt động xây dựng trong quý III/2025. Doanh nghiệp mong muốn có các biện pháp bình ổn giá, kiểm soát hoạt động đầu cơ, đảm bảo nguồn cung ổn định đối với các vật liệu chủ chốt như thép, xi măng, cát…, đồng thời hỗ trợ thông tin minh bạch về thị trường để doanh nghiệp chủ động trong kế hoạch thi công;
Thứ hai, bất ổn về môi trường, thiên tai, và biến đổi khí hậu ngày càng ảnh hưởng mạnh đến tiến độ công trình, các đợt mưa bão, triều cường, lũ lụt gây thiệt hại hạ tầng và gián đoạn thi công. Doanh nghiệp mong muốn các cấp chính quyền cần có kịch bản ứng phó, nâng cao khả năng phòng chống thiên tai – mưa – lũ trong quy hoạch, đồng thời hỗ trợ chi phí bảo hiểm rủi ro thiên tai cho các dự án xây dựng;
Thứ ba, để tận dụng tốt nguồn lực đầu tư công và thúc đẩy thị trường hợp đồng mới, doanh nghiệp kiến nghị cơ chế ưu đãi, bảo lãnh rủi ro cho doanh nghiệp trong nước khi tham gia các dự án hạ tầng trọng điểm. Nhà nước cần hoàn thiện khung pháp lý PPP, mở cửa cho cạnh tranh minh bạch, đồng thời cân nhắc cơ chế hỗ trợ khởi nghiệp, doanh nghiệp nhỏ tham gia dự án vệ tinh, cấp phụ trợ để lan tỏa lợi ích và tăng tỷ lệ nội địa hóa.
CỤC THỐNG KÊ
[1] Chỉ số tương ứng của quý II/2025: 78,7% doanh nghiệp đánh giá tình hình SXKD tốt hơn và giữ ổn định (35,7% tốt lên và 43,0% giữ ổn định); 21,3% doanh nghiệp đánh giá khó khăn hơn.
[2] Chỉ số cân bằng thể hiện số phần trăm doanh nghiệp nhận định tăng trừ đi số phần trăm doanh nghiệp nhận định giảm.
[3] Chỉ số tương ứng của quý II/2025: 78,4% doanh nghiệp nhận định đơn đặt hàng mới tăng và giữ nguyên (33,2% tăng; 45,2% giữ nguyên) và 21,6% nhận định giảm.
[4] Chỉ số tương ứng của quý II/2025: 77,8% doanh nghiệp nhận định đơn đặt hàng xuất khẩu mới tăng và giữ nguyên (26,4% tăng; 51,4% giữ nguyên) và 22,2% nhận định giảm.
[5] Chỉ số tương ứng của quý II/2025: 12,7% doanh nghiệp nhận định sử dụng lao động tăng, 70,4% giữ nguyên và 16,9% nhận định giảm.
[6] Chỉ số tương ứng của quý II/2025: 92,9% doanh nghiệp nhận định chi phí sản xuất một đơn vị sản phẩm tăng và giữ nguyên (27,0% tăng; 65,9% giữ nguyên) và 7,1% nhận định giảm.
[7] Chỉ số tương ứng của quý II/2025 là 74,2%.
[8] Chỉ số tương ứng của quý II/2025: 79,1% doanh nghiệp nhận định khối lượng sản xuất tăng và giữ nguyên (37,5% tăng; 41,6% giữ nguyên) và 20,9% doanh nghiệp nhận định giảm.
[9] Chỉ số tương ứng của quý II/2025: 90,8% doanh nghiệp nhận định giá bình quân một một đơn vị sản phẩm tăng và giữ nguyên (16,1% tăng; 74,7% giữ nguyên) và 9,2% giảm.
[10] Chỉ số tương ứng của quý II/2025: 18,1% doanh nghiệp đánh giá tồn kho thành phẩm tăng; 53,3% doanh nghiệp đánh giá giữ nguyên; 28,6% doanh nghiệp đánh giá giảm.
[11] Chỉ số tương ứng của quý II/2025: 16,8% doanh nghiệp nhận định tồn kho nguyên vật liệu tăng; 55,7% nhận định giữ nguyên; 27,5% nhận định giảm.
[12] Chỉ số tương ứng của quý II/2025 là: 28,3% nhận định hoạt động SXKD thuận lợi hơn; 40,0% nhận định hoạt động SXKD vẫn ổn định và 31,7% doanh nghiệp nhận định hoạt động SXKD khó khăn hơn.
[13] Chỉ số tương ứng của quý II/2025: -3,4% (28,3% doanh nghiệp nhận định thuận lợi hơn và 31,7% doanh nghiệp nhận định khó khăn hơn).
[14] Bao gồm: xây dựng công trình đường sắt, đường bộ, công trình thủy, công trình điện, công trình cấp thoát nước, công trình viễn thông, nhà máy lọc dầu, công trình thể thao ngoài trời,…
[15] Bao gồm: xây dựng nhà để ở, nhà xưởng, bệnh viện, trường học, khách sạn, nhà hàng, trung tâm thương mại, nhà ga hàng không, nhà kho, khu thể thao trong nhà, …
[16] Bao gồm: hoạt động phá dỡ, chuẩn bị mặt bằng, ép cọc; hoạt động hoàn thiện công trình: trát vữa, sơn tường, lắp đặt thiết bị nội thất, lắp hệ thống điện, nước,…
[17] Chỉ số tương ứng của quý II/2025: -4,1% (16,9% doanh nghiệp nhận định tăng và 21,0% nhận định giảm).
[18] Chỉ số tương ứng của quý II/2025: 34,4% (50,2% doanh nghiệp nhận định tăng và 15,8% doanh nghiệp nhận định giảm).
[19] Chỉ số tương ứng của quý II/2025: 40,5% (54,0% doanh nghiệp nhận định tăng và 13,5% nhận định giảm).
[20] Chỉ số tương ứng của quý II/2025: 29,4% (43,1% doanh nghiệp nhận định tăng và 13,7% nhận định giảm).
[21] Chỉ số tương ứng của quý II/2025: 3,8% (22,2% doanh nghiệp nhận định tăng và 18,4% nhận định giảm).
[22] Chỉ số tương ứng của quý II/2025: -1,4% (10,0% doanh nghiệp nhận định tăng và 11,4% nhận định giảm).
[23] Chỉ số tương ứng của quý II/2025: 2,2% (20,3% doanh nghiệp nhận định tăng và 18,1% nhận định giảm).
[24] Chỉ số tương ứng quý II/2025: 22,2% doanh nghiệp nhận đinh tăng; 59,4% không đổi và 18,4% doanh nghiệp nhận định giảm.
[25] Chỉ số tương ứng của quý II/2025: 50,2% nhận định tăng so với quý I/2025; 34,0% doanh nghiệp đánh giá tổng chi phí trên một đơn vị sản phẩm không thay đổi và 15,8% nhận định giảm.
[26] Chỉ số tương ứng của quý II/2025: có 76,2% doanh nghiệp nhận định số lượng hợp đồng xây dựng mới tăng và không đổi (25,9% doanh nghiệp nhận định tăng; 50,3% doanh nghiệp nhận định không đổi); có 23,8% doanh nghiệp nhận định số lượng hợp đồng xây dựng mới giảm.
[27] Chỉ số tương ứng của quý II/2025: 77,0% doanh nghiệp vay vốn phục vụ SXKD.
[28] Chỉ số tương ứng của quý II/2025: 33,5% doanh nghiệp tiếp cận được các khoản vay ưu đãi; 66,5% doanh nghiệp không tiếp cận được các nguồn vay ưu đãi.

Trường học nơi biên cương - từ chủ trương lớn đến hành động cụ thể
Thực hiện chủ trương lớn của Bộ Chính trị, hôm nay 9/11, 100 trường phổ thông nội trú liên cấp tại các xã biên giới được khởi công đồng loạt, nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực và chăm lo đời sống học sinh, giáo viên vùng biên. Đây là bước đi quan trọng, góp phần thu hẹp khoảng cách vùng miền, củng cố quốc phòng - an ninh và xây dựng tương lai bền vững cho các thế hệ trẻ nơi biên cương. (09/11/2025)
Một tầm nhìn mới cho tài chính công Việt Nam
Phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 14 khóa XIII, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh một định hướng chiến lược có ý nghĩa cải cách sâu sắc: "Tài chính công được phân bổ theo kết quả, theo đặc điểm riêng của địa phương". (08/11/2025)
Chuyển đổi số trong nông nghiệp: Tiền đề đưa nông sản Lai Châu ra thị trường thế giới
Một vài năm trước, khái niệm "bán hàng online" còn xa lạ với phần lớn bà con. Nhưng giờ, những người phụ nữ vùng cao đã biết cách mở điện thoại, tự quay video, giới thiệu sản phẩm nông sản của mình trên các nền tảng số. Từ chợ phiên truyền thống, người dân bước vào không gian thương mại điện tử-nơi khách hàng có thể đến từ Hà Nội, Đà Nẵng, hay thậm chí là Nhật Bản. (07/11/2025)
THỊ TRƯỜNG HÀNG HÓA: Giá cà phê tăng mạnh, dầu WTI rơi khỏi ngưỡng 60 USD/thùng
Cà phê tiếp tục là tâm điểm chú ý của thị trường hàng hóa trong phiên ngày 5/11, khi giá Arabica vượt mốc 9.000 USD/tấn, tiệm cận đỉnh thiết lập hồi giữa tháng 10. Ngược lại, tâm lý thận trọng bao trùm thị trường năng lượng khi cả 5 mặt hàng đồng loạt giảm giá. Kết phiên, lực mua mạnh ở nhiều mặt hàng chủ chốt đã giúp chỉ số MXV-Index nhích nhẹ 0,2%, lên 2.340 điểm. (06/11/2025)
Thống kê sát thực tiễn phục vụ xây dựng văn kiện Đại hội Đảng bộ các cấp
Sáng 24/6, Bộ Tài chính tổ chức Hội nghị triển khai, hướng dẫn xây dựng các chỉ tiêu kinh tế - xã hội phục vụ xây dựng văn kiện Đại hội Đảng bộ cấp tỉnh, cấp xã nhiệm kỳ 2025 - 2030. (24/06/2025)
Việt Nam chủ động lộ trình chuyển đổi logistics bền vững
Với việc đăng cai FIATA World Congress 2025, Việt Nam đang khẳng định vai trò chủ động trong chuyển đổi logistics bền vững. Logistics xanh không chỉ là trách nhiệm mà còn là lợi thế cạnh tranh dài hạn. (19/06/2025)





















