Trong 9 tháng năm 2025, thị trường hàng hóa thế giới có nhiều biến động do ảnh hưởng bởi các yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội của các quốc gia. Kinh tế toàn cầu ngày càng khó dự đoán khi tiếp tục đối mặt với nhiều rủi ro khó lường, đặc biệt là căng thẳng thuế quan và bảo hộ thương mại của Hoa Kỳ cùng với phản ứng đối phó của các nước. Việc Mỹ áp thuế cao với hơn 60 quốc gia đang tạo sự biến động mạnh trong chuỗi cung ứng toàn cầu, làm gia tăng nguy cơ, rủi ro trong sản xuất, chế biến và xuất khẩu. Căng thẳng thương mại giữa Mỹ, Trung Quốc và Liên minh châu Âu ảnh hưởng đến triển vọng tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Bên cạnh đó, xung đột quân sự Nga – Ukraine, xung đột tại Trung Đông tiếp tục leo thang tác động bất lợi đến ổn định khu vực và kinh tế thế giới. Nhiều quốc gia tiếp tục duy trì chính sách tiền tệ thắt chặt, tổng cầu yếu khiến kinh tế toàn cầu tăng trưởng chậm. Lạm phát có xu hướng giảm nhưng các ngân hàng Trung ương vẫn tiếp tục theo dõi và điều chỉnh chính sách tiền tệ để đảm bảo tăng trưởng năm 2025. Lạm phát của Mỹ tháng 8/2025 tăng 2,9% so với cùng kỳ năm trước. Tại cuộc họp ngày 17/9/2025, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) đã quyết định giảm lãi suất điều hành 0,25 điểm phần trăm, đưa biên độ lãi suất xuống 4%-4,25%. Đây là lần cắt giảm đầu tiên trong năm, nhằm hỗ trợ tăng trưởng trong bối cảnh thị trường lao động có dấu hiệu chững lại. Trong tháng 8/2025, lạm phát của khu vực đồng Euro tăng 2% so với cùng kỳ năm trước; Anh tăng 3,8%; Tây Ban Nha tăng 2,7%; Đức tăng 2,2%; I-ta-li-a tăng 1,6%; Pháp tăng 0,9%. Tại châu Á, lạm phát tháng 8/2025 của Nhật Bản tăng 2,7%; Ấn Độ tăng 2,1%; Hàn Quốc tăng 1,7%; Phi-lip-pin tăng 1,5%. Ở chiều ngược lại, Trung Quốc giảm 0,4%; Thái Lan giảm 0,8%. Lạm phát của Việt Nam được kiểm soát ở mức phù hợp để hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế, CPI tháng 9/2025 tăng 3,38% so với cùng kỳ năm trước.

Trong nước, công tác cải cách hành chính được Chính phủ đặc biệt chú trọng với nhiều biện pháp đơn giản hóa thủ tục, sắp xếp và điều chỉnh địa giới hành chính nhằm tinh gọn bộ máy, nâng cao hiệu lực quản lý, tạo môi trường thông thoáng cho sản xuất kinh doanh. Song song với đó, Chính phủ tiếp tục chỉ đạo quyết liệt các Bộ, ngành và địa phương triển khai đồng bộ giải pháp điều hành giá, bảo đảm cân đối cung cầu hàng hóa, kiểm soát lạm phát, đồng thời duy trì đà phục hồi kinh tế như: Ổn định thị trường ngoại hối; giảm mặt bằng lãi suất cho vay; đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công; chính sách giảm thuế, phí, tiền sử dụng đất được triển khai; cùng việc hạ thuế bảo vệ môi trường với xăng dầu tiếp tục phát huy hiệu quả; thúc đẩy đổi mới công nghệ và kết nối thị trường được thực hiện linh hoạt. Bình quân 9 tháng năm 2025, CPI tăng 3,27% so với cùng kỳ năm 2024.

PHẦN I. CHỈ SỐ GIÁ TIÊU DÙNG

Dịch vụ giáo dục các trường ngoài công lập, giá thực phẩm và vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng là những nguyên nhân chính làm chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 9/2025 tăng 0,42% so với tháng trước. So với tháng 12/2024, CPI tháng Chín tăng 2,61% và so với cùng kỳ năm trước tăng 3,38%. CPI bình quân quý III/2025 tăng 3,27% so với quý III/2024. Bình quân 9 tháng năm 2025, CPI tăng 3,27% so với cùng kỳ năm trước; lạm phát cơ bản tăng 3,19%.

I. CHỈ SỐ GIÁ TIÊU DÙNG THÁNG 9 NĂM 2025

So với tháng trước, CPI tháng 9/2025 tăng 0,42% (khu vực thành thị tăng 0,42%; khu vực nông thôn tăng 0,43%). Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng chính, có 10 nhóm hàng tăng giá, riêng nhóm văn hóa, giải trí và du lịch có giá giảm.

Nhóm giáo dục tháng 9/2025 tăng 2,22% so với tháng trước, tác động làm CPI chung tăng 0,14 điểm phần trăm, trong đó dịch vụ giáo dục tăng 2,43% do một số trường đại học, trung học dân lập và mầm non tư thục tại một số địa phương điều chỉnh tăng mức học phí năm học 2025-2026 mặc dù các trường công lập được miễn, giảm và hỗ trợ học phí theo Nghị định số 238/2025/NĐ-CP ban hành ngày 3/9/2025 của Chính phủ; giá bút viết các loại tăng 0,88%; sản phẩm từ giấy tăng 0,81%; sách giáo khoa tăng 0,4%; văn phòng phẩm, đồ dùng học tập khác tăng 0,49%. Nhóm giao thông tăng 0,58%, tác động làm tăng CPI chung 0,06 điểm phần trăm, trong đó chỉ số giá xăng tăng 1,85%; dầu diesel tăng 0,71% do ảnh hưởng của các đợt điều chỉnh giá xăng dầu trong tháng; giá xe ô tô đã qua sử dụng tăng 0,15%; phụ tùng ô tô tăng 0,18%; bảo dưỡng phương tiện đi lại tăng 0,1%. Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,41%, tác động làm CPI chung tăng 0,14 điểm phần trăm, trong đó chỉ số giá nhóm thực phẩm tăng 0,49%; nhóm ăn uống ngoài gia đình tăng 0,39%. Nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,41% chủ yếu do giá thuê nhà tăng 0,28% do nhu cầu thuê nhà tại một số địa phương gia tăng khi bước vào năm học mới; giá điện sinh hoạt tăng 0,3%; giá nước sinh hoạt tăng 0,27%; giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 0,52% do giá gạch, cát, đá tăng cao khi nguồn cung khan hiếm, chi phí sản xuất như than, điện và vận chuyển tăng trong khi nhu cầu xây dựng cao; giá gas tăng 0,35%; giá dầu hỏa tăng 0,67% do ảnh hưởng của các đợt điều chỉnh giá trong tháng. Nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,12% do nhu cầu tiêu dùng tăng trong dịp hè, Lễ Vu Lan và chi phí sản xuất tăng. Nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,22%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,1%; nhóm may mặc, mũ nón và giày dép tăng 0,07%; nhóm bưu chính, viễn thông tăng 0,04%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng nhẹ 0,03% so với tháng trước.

Ở chiều ngược lại, nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tháng 9/2025 giảm 0,13% so với tháng trước, trong đó du lịch trọn gói giảm 0,78% do các công ty du lịch triển khai chương trình khuyến mại giảm giá để kích cầu tiêu dùng.

So với cùng kỳ năm trước, CPI tháng 9/2025 tăng 3,38%. Trong 11 nhóm hàng tiêu dùng chính có 10 nhóm tăng giá và 01 nhóm giảm giá.

Các nhóm hàng có chỉ số giá tháng 9/2025 tăng so với cùng kỳ năm trước như sau: Nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng cao nhất với 12,62%, làm CPI chung tăng 0,68 điểm phần trăm do giá dịch vụ y tế tăng theo Thông tư số 21/2024/TT-BYT ngày 17/10/2024 của Bộ Y tế. Nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 6,87%, tác động làm CPI chung tăng 1,29 điểm phần trăm, nguyên nhân chủ yếu do giá thuê nhà, vật liệu bảo dưỡng nhà ở và dịch vụ sửa chữa đều tăng, cụ thể giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 9,29%; giá nhà ở thuê tăng 6,84%; dịch vụ sửa chữa nhà ở tăng 5,38%; thêm vào đó giá điện sinh hoạt tăng 10,8%; dịch vụ nước sinh hoạt tăng 3,87%; dịch vụ về điện sinh hoạt tăng 2,67%; nước sinh hoạt tăng 0,96%. Nhóm giáo dục tăng 3,24%, tác động làm CPI chung tăng 0,20 điểm phần trăm do một số trường dân lập, tư thục điều chỉnh học phí năm học mới. Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 2,06% tác động làm CPI chung tăng 0,69 điểm phần trăm, trong đó giá thực phẩm tăng 1,93%; ăn uống ngoài gia đình tăng 3,57%; nhóm lương thực giảm 0,72%. Nhóm giao thông tăng 1,46%, tác động làm CPI chung tăng 0,14 điểm phần trăm, trong đó giá xăng, dầu tăng 1,05% theo giá thế giới; phụ tùng tăng 2,67%; phương tiện đi lại tăng 0,05%. Nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 1,84% làm CPI chung tăng 0,08 điểm phần trăm, chủ yếu do nhu cầu du lịch tăng cao cùng với chi phí vận chuyển, lưu trú và các dịch vụ giải trí đồng loạt tăng trong mùa cao điểm nghỉ Lễ. Nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 2,35%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 1,69%; nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 1,41%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 2,88%.

Ở chiều ngược lại, nhóm bưu chính, viễn thông giảm 0,62%, tác động làm CPI chung giảm 0,02 điểm phần trăm do giá bán máy điện thoại di động thông minh và máy tính bảng và phụ kiện giảm khi cạnh tranh giữa các hãng sản xuất gia tăng, công nghệ sản xuất cải tiến làm giảm chi phí, cùng với các chương trình giảm giá và khuyến mại kích cầu tiêu dùng.

 Chỉ số giá vàng

Giá vàng trong nước biến động cùng chiều với giá vàng thế giới. Tính đến ngày 29/9/2025, bình quân giá vàng thế giới ở mức 3.688,38 USD/ounce, tăng 7,9% so với tháng trước. Ngày 17/9/2025, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) đã quyết định cắt lãi suất điều hành xuống 4%-4,25% khiến đồng USD suy yếu, lợi suất trái phiếu giảm, qua đó làm gia tăng sức hấp dẫn của vàng đẩy giá vàng thế giới lên cao. Bên cạnh đó, căng thẳng thương mại kéo dài, rủi ro địa chính trị gia tăng cùng kỳ vọng lạm phát vẫn hiện hữu đã thúc đẩy nhu cầu nắm giữ vàng như tài sản trú ẩn an toàn. Trong nước, chỉ số giá vàng tháng 9/2025 tăng 6,53% so với tháng trước; tăng 55,4% so với cùng kỳ năm 2024; tăng 45,42% so với tháng 12/2024; bình quân 9 tháng năm 2025, chỉ số giá vàng tăng 41,86% so với cùng kỳ năm trước.

Chỉ số giá đô la Mỹ

Giá đô la Mỹ trong nước diễn biến ngược chiều với giá thế giới. Tính đến ngày 29/9/2025, chỉ số USD trên thị trường quốc tế đạt mức 97,48 điểm, giảm 0,65% so với tháng trước, chủ yếu do FED cắt giảm lãi suất làm đồng USD mất sức hấp dẫn so với các đồng tiền chủ chốt khác. Trong nước, chỉ số giá đô la Mỹ tháng 9/2025 tăng 0,3% so với tháng trước do nhu cầu ngoại tệ tăng phục vụ nhu cầu nhập khẩu hàng hóa và yếu tố tâm lý giữ USD của người dân trong bối cảnh Ngân hàng Nhà nước nới lỏng chính sách tiền tệ; tăng 6,64% so với cùng kỳ năm 2024; tăng 3,98% so với tháng 12/2024; bình quân 9 tháng năm 2025, chỉ số giá đô la Mỹ tăng 3,8% so với cùng kỳ năm trước.

II. CHỈ SỐ GIÁ TIÊU DÙNG QUÝ III NĂM 2025

Chỉ số giá tiêu dùng quý III/2025 tăng 3,27% so với cùng kỳ năm 2024. Nguyên nhân chủ yếu do:

– Chỉ số giá nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống bình quân quý III/2025 tăng 2,52% so với cùng kỳ năm trước, tác động làm tăng CPI chung 0,85 điểm phần trăm. Trong đó, chỉ số giá nhóm thực phẩm tăng 2,48% do nhu cầu tiêu dùng trong dịp nghỉ Lễ Quốc khánh 02/9 và Lễ Vu Lan tăng, tác động làm tăng CPI chung 0,53 điểm phần trăm; nhóm ăn uống ngoài gia đình tăng 3,77%, làm tăng CPI chung 0,33 điểm phần trăm do nhu cầu tăng, giá nguyên liệu đầu vào và chi phí nhân công tăng; nhóm lương thực giảm 0,14%, tác động làm giảm CPI chung 0,01 điểm phần trăm, chủ yếu do giá gạo giảm theo giá thế giới.

– Chỉ số giá nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 6,98% so với cùng kỳ năm trước, tác động làm tăng CPI chung 1,31 điểm phần trăm, trong đó chỉ số giá nhà ở thuê và nhà chủ sở hữu tính quy đổi tăng 7,72%, tác động làm tăng 0,81 điểm phần trăm; chỉ số giá điện sinh hoạt tăng 10,2% do nhu cầu sử dụng tăng cao, tác động làm tăng 0,34 điểm phần trăm.

– Chỉ số giá nhóm giáo dục tăng 3,13% so với cùng kỳ năm trước do một số trường dân lập, tư thục tăng học phí năm học mới 2025-2026, tác động làm tăng CPI chung 0,19 điểm phần trăm.

– Chỉ số giá nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 12,69%, tác động làm tăng CPI 0,68 điểm phần trăm do giá dịch vụ y tế được điều chỉnh theo Thông tư số 21/2024/TT-BYT ngày 17/10/2024 của Bộ Y tế.

– Chỉ số giá nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 1,78%, tác động làm CPI tăng 0,08 điểm phần trăm do nhu cầu du lịch trong dịp lễ tăng, kéo theo giá dịch vụ lưu trú, giải trí tăng.

– Chỉ số giá nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 2,93%, chủ yếu do giá đồ trang sức tăng theo giá vàng trong nước cùng với giá đồ dùng cá nhân tăng.

Ở chiều ngược lại, chỉ số giá nhóm giao thông giảm 1,42%, tác động làm CPI giảm 0,14 điểm phần trăm, trong đó giá xăng dầu giảm 6,62% theo giá thế giới, góp phần làm CPI giảm 0,24 điểm phần trăm. Chỉ số giá nhóm bưu chính, viễn thông giảm 0,53% do giá điện thoại thế hệ cũ giảm, góp phần làm CPI giảm 0,02 điểm phần trăm.

III. CHỈ SỐ GIÁ TIÊU DÙNG 9 THÁNG NĂM 2025

Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 9 tháng năm 2025 tăng 3,27% so với cùng kỳ năm 2024. Nguyên nhân chủ yếu do:

– Chỉ số giá nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 3,3%, tác động làm CPI chung tăng 1,11 điểm phần trăm, trong đó nhóm thực phẩm tăng 3,59%, tác động làm CPI chung tăng 0,76 điểm phần trăm, chủ yếu do giá thịt lợn tăng 10,1%; mỡ ăn tăng 13,08%; nhóm ăn uống ngoài gia đình tăng 3,72%; nhóm lương thực tăng 0,69%.

– Chỉ số giá nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 6,14%, làm CPI chung tăng 1,16 điểm phần trăm do giá nhà ở thuê và giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng. Bên cạnh đó, chỉ số giá nhóm điện sinh hoạt tăng 7,05% do nhu cầu sử dụng điện tăng cùng với EVN điều chỉnh mức giá bán lẻ điện bình quân vào ngày 11/10/2024 và ngày 10/5/2025, tác động làm CPI chung tăng 0,23 điểm phần trăm.

– Chỉ số giá nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 13,48%, làm CPI chung tăng 0,73 điểm phần trăm do giá dịch vụ y tế được điều chỉnh theo Thông tư số 21/2024/TT-BYT ngày 17/10/2024 của Bộ Y tế.

– Chỉ số giá nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 1,63%, tác động làm CPI chung tăng 0,11 điểm phần trăm.

– Chỉ số giá nhóm giáo dục tăng 1,81%, làm CPI chung tăng 0,11 điểm phần trăm do một số trường đại học, trung học dân lập, mầm non tư thục điều chỉnh học phí năm học 2025-2026.

– Chỉ số giá hàng hóa và dịch vụ khác tăng 5,37%, làm CPI chung tăng 0,19 điểm phần trăm chủ yếu do giá lệ phí công chứng, bảo hiểm và dịch vụ khác tăng 11,23%; đồ dùng cá nhân tăng 5%; dịch vụ hiếu, hỉ tăng 2,64%.

Ở chiều ngược lại, chỉ số nhóm giao thông giảm 2,9%, tác động làm CPI chung giảm 0,28 điểm phần trăm, trong đó giá xăng dầu giảm 10,63%. Nhóm bưu chính, viễn thông giảm 0,47%, tác động làm CPI chung giảm 0,01 điểm phần trăm do giá điện thoại thế hệ cũ giảm.

IV. LẠM PHÁT CƠ BẢN

Lạm phát cơ bản[1] tháng 9/2025 tăng 0,2% so với tháng trước và tăng 3,18% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân 9 tháng năm 2025, lạm phát cơ bản tăng 3,19% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn mức tăng 3,27% của CPI bình quân chung, nguyên nhân chủ yếu do giá lương thực, thực phẩm, điện sinh hoạt, giá dịch vụ y tế, dịch vụ giáo dục là yếu tố tác động làm tăng CPI nhưng thuộc nhóm hàng được loại trừ trong danh mục tính lạm phát cơ bản.

PHẦN II. CHỈ SỐ GIÁ SẢN XUẤT, CHỈ SỐ GIÁ NGUYÊN NHIÊN VẬT LIỆU DÙNG CHO SẢN XUẤT,
CHỈ SỐ GIÁ XUẤT KHẨU, NHẬP KHẨU HÀNG HÓA

Trong 9 tháng năm 2025, hoạt động sản xuất hàng hóa và dịch vụ về cơ bản vẫn duy trì tăng trưởng tích cực mặc dù chịu ảnh hưởng từ chi phí đầu vào, biến động tỷ giá, sự phụ thuộc vào chuỗi cung ứng toàn cầu và áp lực cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu. Chỉ số giá sản xuất;chỉ số giá nguyên nhiên vật liệu dùng cho sản xuất;chỉ số giá xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa quý III và 9 tháng năm 2025 đều tăng so với cùng kỳ năm trước.

I. CHỈ SỐ GIÁ SẢN XUẤT SẢN PHẨM NÔNG, LÂM NGHIỆP VÀ THỦY SẢN

Chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông, lâm nghiệp và thủy sản quý III/2025 giảm 1,25% so với quý II/2025 và tăng 1,87% so với cùng kỳ năm trước.

Tính chung 9 tháng năm 2025, chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 4,91% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông nghiệp và dịch vụ có liên quan tăng 5,05%; lâm nghiệp và dịch vụ có liên quan tăng 3,53%; thủy sản khai thác, nuôi trồng tăng 4,39%.

1. Chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông nghiệp và dịch vụ có liên quan

Chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông nghiệp và dịch vụ có liên quan quý III/2025 giảm 1,91% so với quý trước và tăng 0,6% so với cùng kỳ năm 2024. Trong đó, chỉ số giá sản phẩm từ cây hàng năm giảm 0,08% và giảm 2,07%; sản phẩm từ cây lâu năm giảm 6,37% và giảm 0,22%; sản phẩm từ chăn nuôi giảm 1,26% và tăng 3,72%; dịch vụ nông nghiệp tăng 0,79% và tăng 1,86%; sản phẩm từ săn bắt, đánh bẫy và dịch vụ có liên quan giảm 1,84% và giảm 6,2%.

Tính chung 9 tháng năm 2025, chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông nghiệp và dịch vụ có liên quan tăng 5,05% so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể:

Chỉ số giá sản phẩm từ cây hằng năm giảm 1,02%, trong đó giá thóc khô giảm 4,12% do nguồn cung trong nước tăng trong khi giá gạo thế giới giảm, Phi-lip-pin và In-đô-nê-xi-a ngừng nhập khẩu gạo Việt Nam, cùng với đó cạnh tranh với các nước xuất khẩu gạo lớn như Ấn Độ, Thái Lan ngày càng gay gắt; giá nhóm sản phẩm cây lấy sợi giảm 2,07%. Ngược lại, giá sản phẩm mía cây tươi tăng 2,52% do nhu cầu tăng; giá sản phẩm rau, đậu các loại và hoa tăng 1,79% do trong quý III ảnh hưởng của thời tiết mưa bão tại miền Bắc và miền Trung khiến nguồn cung thấp, dẫn đến giá tăng; giá sản phẩm cây có hạt chứa dầu tăng 5,04%; giá sản phẩm cây gia vị hằng năm tăng 2,81%.

Chỉ số giá sản phẩm từ cây lâu năm tăng 12,56%, trong đó giá sản phẩm cây lấy quả chứa dầu tăng 87,45% do nhu cầu sử dụng làm nguyên liệu phục vụ sản xuất tăng và nhu cầu nhập khẩu từ các nước tăng; giá hạt điều khô tăng 22,06% do nguồn cung hạn chế và chi phí sản xuất, chế biến tăng cao; giá mủ cao su khô tăng 24,27%; giá hạt hồ tiêu khô tăng 34,03%; giá cà phê nhân tăng 26,05% do tác động từ chính sách thuế nhập khẩu của các nước và nguồn cung trong nước hạn chế; giá sản phẩm cây chè tăng 0,74%; giá sản phẩm cây gia vị, cây dược liệu, cây hương liệu lâu năm tăng 10,62%. Ngược lại, giá sản phẩm cây ăn quả giảm 2,97% do trong quý III một số loại hoa quả xuất khẩu chủ lực vào vụ thu hoạch như cam, quýt, chôm chôm, măng cụt và các loại quả có múi.

Chỉ số giá sản phẩm từ chăn nuôi tăng 7,12% trong đó giá sản phẩm chăn nuôi lợn và giống lợn tăng 13,8% do nguồn cung tại một số khu vực bị ảnh hưởng của dịch bệnh; chi phí đầu vào chăn nuôi tăng. Ngược lại giá sản phẩm chăn nuôi gia cầm giảm 0,49%.

2. Chỉ số giá sản xuất sản phẩm lâm nghiệp và dịch vụ có liên quan

Chỉ số giá sản xuất sản phẩm lâm nghiệp và dịch vụ có liên quan quý III/2025 tăng 0,47% so với quý trước và tăng 3,29% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá sản phẩm trồng rừng, chăm sóc rừng và cây giống lâm nghiệp tăng 0,44% và tăng 3,48%; gỗ khai thác tăng 0,73% và tăng 3,73%; dịch vụ lâm nghiệp tăng 0,29% và tăng 2,49%; lâm sản khai thác, thu nhặt khác trừ gỗ giảm 0,1% và tăng 2,37%.

Tính chung 9 tháng năm 2025, chỉ số giá sản xuất sản phẩm lâm nghiệp và dịch vụ có liên quan tăng 3,53% so với cùng kỳ năm 2024, trong đó, chỉ số giá sản xuất sản phẩm trồng rừng, chăm sóc rừng và cây giống lâm nghiệp tăng 3,08%; gỗ khai thác tăng 3,8% do chi phí đầu vào khai thác gỗ tăng và nhu cầu tăng trong quá trình đẩy mạnh vốn đầu tư công, sửa chữa nhà ở, công trình xây dựng sau sắp xếp lại đơn vị hành chính; chỉ số giá nhóm lâm sản khai thác, thu nhặt khác trừ gỗ tăng 3,19%; dịch vụ lâm nghiệp tăng 3,55%.

3. Chỉ số giá sản xuất sản phẩm thủy sản khai thác, nuôi trồng

Chỉ số giá sản xuất sản phẩm thủy sản khai thác, nuôi trồng quý III/2025 tăng 0,41% so với quý trước và tăng 5,53% so với cùng kỳ năm 2024, trong đó, giá nhóm sản phẩm thủy sản khai thác tăng 0,44% và tăng 2,86%; nhóm thủy sản nuôi trồng tăng 0,38% và tăng 7,4%.

Tính chung 9 tháng năm 2025, chỉ số giá thủy sản khai thác và nuôi trồng tăng 4,39% so với cùng kỳ năm trước, trong đó giá nhóm sản phẩm thủy sản khai thác tăng 2,45%; giá nhóm thủy sản nuôi trồng tăng 5,74%.

II. CHỈ SỐ GIÁ SẢN XUẤT SẢN PHẨM CÔNG NGHIỆP

Chỉ số giá sản xuất sản phẩm công nghiệp quý III/2025 tăng 1,06% so với quý trước và tăng 2,73% so với cùng kỳ năm 2024.

Tính chung 9 tháng năm 2025, chỉ số giá sản xuất sản phẩm công nghiệp tăng 2,23% so với cùng kỳ năm 2024.

1. Chỉ số giá sản xuất sản phẩm khai khoáng

Chỉ số giá sản xuất sản phẩm khai khoáng quý III/2025 tăng 2,31% so với quý trước và giảm 3,12% so với cùng kỳ năm 2024.

Tính chung 9 tháng năm 2025, chỉ số giá sản xuất sản phẩm khai khoáng giảm 3,41% so với cùng kỳ năm trước, trong đó, chỉ số giá dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm 5,68%; chỉ số giá sản xuất nhóm than cứng và than non giảm 3,1% do ảnh hưởng của giá dầu và giá than thế giới. Ngược lại, sản phẩm khai khoáng khác tăng 3,21% do nhu cầu xây dựng và đầu tư hạ tầng tăng, trong khi nguồn cung hạn chế do hoạt động khai thác bị siết chặt vì yếu tố môi trường, nhiều mỏ chưa được cấp phép hoặc tạm ngừng khai thác; chỉ số giá sản xuất quặng kim loại và tinh quặng kim loại tăng 1,91% do giá các loại quặng kim loại quý tăng trong khi nguồn cung khai thác hạn chế.

2. Chỉ số giá sản xuất sản phẩm công nghiệp chế biến, chế tạo

Chỉ số giá sản xuất sản phẩm công nghiệp chế biến, chế tạo quý III/2025 tăng 1,02% so với quý trước và tăng 2,77% so với cùng kỳ năm 2024.

Tính chung 9 tháng năm 2025, chỉ số giá sản xuất sản phẩm công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 2,19% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 4,19% do nhu cầu quốc tế tăng đối với sản phẩm linh kiện điện tử, bán dẫn; chỉ số giá sản phẩm chế biến thực phẩm tăng 4,16% do chi phí nhân công và giá nguyên liệu sản xuất sản phẩm đầu vào tăng; chỉ số giá sản phẩm chế biến từ gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa trừ giường, tủ, bàn, ghế; từ rơm, rạ và vật liệu tết bện tăng 3,07% do nguyên liệu đầu vào cũng như chi phí sản xuất, nhân công tăng. Ngược lại, chỉ số giá than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế giảm 8,14% do ảnh hưởng của giá dầu thế giới; chỉ số giá sản phẩm kim loại giảm 3,78% do nhu cầu tiêu thụ của các nền kinh tế lớn giảm, trong khi nguồn cung toàn cầu dồi dào.

3. Chỉ số giá sản xuất điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí

Chỉ số giá sản xuất điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí quý III/2025 tăng 0,99% so với quý trước và tăng 7,96% so với cùng kỳ năm 2024.

Tính chung 9 tháng năm 2025, chỉ số giá sản xuất điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 9,49% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân chủ yếu do điều chỉnh tăng giá bán điện và nhu cầu tiêu thụ năng lượng tăng. Bên cạnh đó, chi phí nhiên liệu đầu vào và chi phí vận hành cao, góp phần làm chỉ số giá nhóm này tăng.

4. Chỉ số giá sản xuất nước tự nhiên khai thác; dịch vụ quản lý nước và xử lý rác thải, nước thải

Chỉ số giá sản xuất nước tự nhiên khai thác; dịch vụ quản lý nước và xử lý rác thải, nước thải quý III/2025 tăng 0,29% so với quý trước và tăng 1,51% so với cùng kỳ năm 2024.

Tính chung 9 tháng năm 2025, chỉ số giá sản xuất nước tự nhiên khai thác; dịch vụ quản lý nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 1,89% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân chủ yếu do chi phí nhân công, chi phí vận hành tăng nên một số công ty điều chỉnh giá nước sạch, dịch vụ thu gom, xử lý và tiêu hủy rác thải, tái chế phế liệu.

III. CHỈ SỐ GIÁ SẢN XUẤT DỊCH VỤ

Chỉ số giá sản xuất dịch vụ quý III/2025 tăng 0,86% so với quý trước và tăng 5,3% so với cùng kỳ năm 2024.

Tính chung 9 tháng năm 2025, chỉ số giá sản xuất dịch vụ tăng 5,05% so với cùng kỳ năm trước, trong đó, dịch vụ vận tải, kho bãi tăng 6,55%; dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 4,71%; giáo dục và đào tạo tăng 1,6%; y tế và trợ giúp xã hội tăng 18,21%; hoạt động dịch vụ khác tăng 3,41%; hoạt động làm thuê các công việc trong các hộ gia đình tăng 4,53%.

1. Chỉ số giá dịch vụ vận tải, kho bãi

Chỉ số giá dịch vụ vận tải, kho bãi quý III/2025 tăng 2,19% so với quý trước và tăng 7,21% so với cùng kỳ năm 2024.

Tính chung 9 tháng năm 2025, chỉ số giá dịch vụ vận tải, kho bãi tăng 6,55% so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể: Chỉ số giá dịch vụ vận tải đường sắt, đường bộ tăng 2,75%, trong đó giá dịch vụ vận tải đường sắt tăng 1% do giá vé tàu quay trở lại mức bình thường sau thời gian áp dụng chính sách kích cầu; giá dịch vụ vận tải bằng xe buýt tăng 22,85% do một số địa phương điều chỉnh giá vé để bù đắp chi phí nhiên liệu, bảo dưỡng phương tiện và nâng cao chất lượng dịch vụ. Chỉ số giá dịch vụ vận tải đường thủy tăng 2,73%, trong đó giá dịch vụ vận tải đường ven biển và viễn dương tăng 3,18% nguyên nhân là do giá cước vận tải biển thế giới tăng khi xảy ra tình trạng tắc nghẽn cảng biển, tập trung container về phía Trung Quốc. Chỉ số giá dịch vụ vận tải đường hàng không tăng 69,12%, chủ yếu do nhu cầu du lịch, đi lại tăng cao đặc biệt trong các dịp Tết, Lễ kỷ niệm 80 năm ngày Quốc khánh, chi phí nhiên liệu bay vẫn duy trì ở mức cao cùng với tác động của biến động tỷ giá tăng. Chỉ số giá dịch vụ kho bãi và các dịch vụ liên quan đến hỗ trợ vận tải tăng 2,03%; dịch vụ bưu chính và chuyển phát tăng 0,62%.

2. Chỉ số giá dịch vụ lưu trú và ăn uống

Chỉ số giá dịch vụ lưu trú và ăn uống quý III/2025 tăng 1,15% so với quý trước và tăng 5,01% so với cùng kỳ năm 2024, trong đó dịch vụ lưu trú tăng 3,21% và tăng 8,8%; dịch vụ ăn uống tăng 0,89% và tăng 4,52%.

Tính chung 9 tháng năm 2025, chỉ số giá dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 4,71% so với cùng kỳ năm 2024. Trong đó chỉ số giá dịch vụ lưu trú tăng 7,75% do nhu cầu du lịch tăng mạnh, nhiều lễ hội và sự kiện văn hóa đã được tổ chức. Cùng với đó, chất lượng về cơ sở vật chất, hạ tầng và dịch vụ lưu trú được cải thiện đã khiến lượng khách nội địa và quốc tế tăng mạnh mẽ, khiến nhiều khách sạn, khu nghỉ dưỡng kín phòng. Chỉ số giá dịch vụ ăn uống tăng 4,34% do giá lương thực, thực phẩm tăng, chi phí nguyên liệu và nhân công cao hơn, đồng thời hoạt động du lịch tăng cao làm nhu cầu ăn uống ngoài gia đình tăng.

3. Chỉ số giá dịch vụ y tế và trợ giúp xã hội

Chỉ số giá dịch vụ y tế và trợ giúp xã hội quý III/2025 không thay đổi so với quý trước và tăng 16,7% so với cùng kỳ năm 2024.

Tính chung 9 tháng năm 2025, chỉ số giá dịch vụ y tế và trợ giúp xã hội tăng 18,21% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân chủ yếu do các địa phương áp dụng giá dịch vụ y tế mới theo Thông tư số 21/2024/TT-BYT ngày 17/10/2024 của Bộ Y tế, quy định phương pháp định giá dịch vụ khám, chữa bệnh. Bên cạnh đó, chi phí khám chữa bệnh tăng trong bối cảnh dân số già hóa, đồng thời chi phí nhập khẩu thiết bị, vật tư y tế tăng do biến động tỷ giá.

4. Hoạt động dịch vụ khác

Chỉ số giá hoạt động dịch vụ khác quý III/2025 tăng 0,37% so với quý trước và tăng 2,92% so với cùng kỳ năm 2024, chủ yếu do chi phí nhân công, phí sửa chữa, bảo dưỡng đồ dùng gia đình, các dịch vụ về cưới hỏi và giá các hoạt động dịch vụ phục vụ cá nhân tăng. Tính chung 9 tháng năm 2025, chỉ số giá hoạt động dịch vụ khác tăng 3,41% so với cùng kỳ năm 2024.

IV. CHỈ SỐ GIÁ NGUYÊN NHIÊN VẬT LIỆU DÙNG CHO SẢN XUẤT

Chỉ số giá nguyên nhiên vật liệu dùng cho sản xuất quý III/2025 tăng 1,29% so với quý trước và tăng 4,6% so với cùng kỳ năm 2024. Tính chung 9 tháng năm 2025, chỉ số giá nguyên nhiên vật liệu dùng cho sản xuất tăng 4,09% so với cùng kỳ năm trước.

1. Chỉ số giá nguyên nhiên vật liệu dùng cho sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

Chỉ số giá nguyên nhiên vật liệu dùng cho sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản quý III/2025 tăng 1,17% so với quý trước và tăng 2,66% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá nhóm sản phẩm nhân và chăm sóc cây giống lâu năm tăng 13,41% do nhu cầu trồng mới cao; điện sản xuất tăng 9,55% theo điều chỉnh giá bán điện bình quân từ tháng 5/2025; sản phẩm chăn nuôi tăng 9,22%; hóa chất cơ bản, phân bón và hợp chất nitơ tăng 5,85% do giá nhập khẩu nguyên liệu và chi phí vận chuyển tăng; hơi nước, nước nóng, nước đá tăng 4,22%; dịch vụ thú y tăng 3,7%; sản phẩm trồng rừng và chăm sóc rừng tăng 2,93%; dịch vụ lâm nghiệp tăng 2,5%; sản phẩm dệt khác tăng 2,05%; sản phẩm thủy sản nuôi trồng tăng 1,87% do nguồn cung hạn chế, trong khi thị trường tiêu thụ trong nước và xuất khẩu tăng mạnh; sản phẩm cây lâu năm và sản phẩm hóa chất khác cùng tăng 1,74%. Ngược lại, sản phẩm cây hằng năm giảm 3,19%; sản phẩm chế biến từ dầu mỏ giảm 1,95% theo giá thế giới.

Tính chung 9 tháng năm 2025, chỉ số giá nguyên nhiên vật liệu dùng cho sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,07% so với cùng kỳ năm trước, trong đó sản phẩm nhân và chăm sóc cây giống lâu năm tăng 15,13% do nhu cầu mua cây giống để trồng tăng; sản phẩm chăn nuôi tăng 14,3% do nhu cầu tái đàn tăng trong khi nguồn cung giảm vì dịch tả lợn châu Phi và cúm gia cầm nên giá con giống tăng; điện sản xuất tăng 6,87%; dịch vụ thú y tăng 4,29% do nhu cầu tăng; sản phẩm trồng rừng và chăm sóc rừng và sản phẩm thủy sản nuôi trồng cùng tăng 3,4%; sản phẩm cây lâu năm tăng 2,4%; hơi nước, nước nóng, nước đá tăng 2,34%. Ngược lại, sản phẩm chế biến từ dầu mỏ giảm 4,37% theo giá thế giới; sản phẩm cây hằng năm giảm 3,26%.

2. Nhóm nguyên nhiên vật liệu dùng cho sản xuất công nghiệp chế biến, chế tạo

Chỉ số giá nguyên nhiên vật liệu dùng cho sản xuất công nghiệp chế biến, chế tạo, quý III/2025 tăng 1,13% so với quý trước và tăng 4,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá nhóm sản phẩm thủy sản nước ngọt nguyên liệu tăng 18,05%; phương tiện và thiết bị vận tải tăng 17,58% do chi phí nhập khẩu và tỷ giá tăng; quặng kim loại khác không chứa sắt tăng 13,32%; sản phẩm thủy sản khai thác tăng 12,9%; sản phẩm linh kiện điện tử tăng 11,04%; sợi, vải dệt thoi, sản phẩm dệt hoàn thiện tăng 7,33%; điện sản xuất tăng 7,11%; sản phẩm cây lâu năm tăng 6,99%. Ngược lại, sản phẩm thuốc lá giảm 18,36%; phụ tùng và bộ phận phụ trợ dùng cho xe có động cơ giảm 6,97%.

Tính chung 9 tháng năm 2025, chỉ số giá nguyên nhiên vật liệu dùng cho sản xuất công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,43%, trong đó chỉ số giá nhóm phương tiện và thiết bị vận tải tăng 15,98%; thủy sản nước ngọt nguyên liệu tăng 15,58%; sản phẩm thủy sản khai thác tăng 10,93%; sản phẩm linh kiện điện tử tăng 10,85%; sản phẩm cây lâu năm tăng 10,42%; quặng kim loại khác không chứa sắt tăng 7,87%; sợi, vải dệt thoi, sản phẩm dệt hoàn thiện tăng 7,25%; dầu, mỡ động thực vật chế biến tăng 7,04%. Ngược lại, chỉ số giá sản phẩm thuốc lá giảm 17,78%; sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 7,02%; sản phẩm từ chế biến dầu mỏ giảm 6,44% theo giá thế giới.

3. Chỉ số giá nguyên nhiên vật liệu dùng cho xây dựng

Chỉ số giá nguyên nhiên vật liệu dùng cho xây dựng quý III/2025 tăng 3,12% so với quý trước và tăng 4,64% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá đá, cát, sỏi, đất sét tăng 28,76% so với cùng kỳ năm trước; điện sản xuất tăng 6,64%; thủy tinh và các sản phẩm làm từ thủy tinh tăng 6,10%; thiết bị điện chiếu sáng tăng 5,84%; dây và thiết bị dây dẫn tăng 4,58%; nước tự nhiên khai thác tăng 4,21%; dịch vụ lắp đặt hệ thống điện, hệ thống cấp thoát nước tăng 4,17%; cấu kiện kim loại, thùng, bể chứa và nồi hơi tăng 3,94%; dịch vụ thiết kế chuyên dụng tăng 3,15%.

Tính chung 9 tháng năm 2025, chỉ số giá nguyên nhiên vật liệu dùng cho xây dựng tăng 2,33% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá nhóm đá, cát, sỏi, đất sét tăng 14,64% do nguồn cung khan hiếm, chi phí sản xuất, vận chuyển tăng; điện sản xuất tăng 7,2% do giá điện tăng từ ngày 10/5/2025, EVN tăng giá bán lẻ điện cho các ngành sản xuất; dịch vụ lắp đặt hệ thống điện, hệ thống cấp thoát nước tăng 4,13%; thủy tinh và các sản phẩm làm từ thủy tinh tăng 4,06%; dịch vụ thiết kế chuyên dụng tăng 3,35%. Ngược lại, chỉ số giá nhóm sản phẩm từ chế biến dầu mỏ giảm 9,15% theo giá thế giới; đồ điện dân dụng giảm 0,11%.

V. CHỈ SỐ GIÁ XUẤT KHẨU, NHẬP KHẨU, TỶ GIÁ THƯƠNG MẠI HÀNG HÓA

1. Chỉ số giá xuất khẩu hàng hóa

Chỉ số giá xuất khẩu hàng hóa quý III/2025 tăng 0,11% so với quý trước và tăng 0,31% so với cùng kỳ năm 2024, trong đó chỉ số giá của nhóm nông sản, thực phẩm giảm 5,15% và tăng 6,58%; nhóm nhiên liệu giảm 7,74% và giảm 22,23%; nhóm hàng hóa chế biến, chế tạo khác tăng 1,08% và tăng 0,14%.

Tính chung 9 tháng năm 2025, chỉ số giá xuất khẩu hàng hóa tăng 4,46% so với cùng kỳ năm trước, trong đó giá hạt tiêu tăng 39,88% và cà phê tăng 37,83% do ảnh hưởng giá thế giới và nhu cầu tiêu dùng thế giới hồi phục, trong khi nguồn cung từ các nước sản xuất lớn chịu ảnh hưởng bởi thời tiết bất lợi; hàng rau quả tăng 20,98%; cao su tăng 17,6%; hạt điều tăng 14,86% do thị trường xuất khẩu mở rộng; phân bón tăng 7,07%. Ngược lại, giá xuất khẩu sắn và sản phẩm từ sắn giảm 21,43% do cầu từ Trung Quốc chững lại; giá nhiên liệu như dầu thô, than đá đều giảm lần lượt 16,56% và 14,91% do ảnh hưởng giá năng lượng thế giới giảm; sắt, thép giảm 10%; thức ăn gia súc và nguyên liệu giảm 6,23%.

2. Chỉ số giá nhập khẩu hàng hóa

Chỉ số giá nhập khẩu hàng hóa quý III/2025 giảm 0,93% so với quý trước và tăng 0,17% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá của nhóm nông sản, thực phẩm giảm 1,22% và tăng 5,4%; nhóm nhiên liệu giảm 1,31% và giảm 5,7%; nhóm hàng hóa chế biến, chế tạo khác giảm 0,9% và tăng 0,36%.

Tính chung 9 tháng năm 2025, chỉ số giá nhập khẩu hàng hóa tăng 1,02% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá nhóm hàng rau quả tăng 17,05%; dầu mỡ động thực vật tăng 12,98%; cao su nguyên liệu tăng 12,07%; hóa chất tăng 7,81% phản ánh nhu cầu sản xuất, chế biến và tiêu dùng trong nước mở rộng. Ngược lại, giá nhập khẩu than đá giảm 18,37%; thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu giảm 11,32% do nguồn cung toàn cầu dồi dào; lúa mỳ giảm 6,21%; sắt, thép giảm 5,8%; dây điện và dây cáp điện giảm 0,99%.

3. Tỷ giá thương mại hàng hóa

Tỷ giá thương mại hàng hóa (TOT)[2] quý III/2025 tăng 1,05% so với quý trước và tăng 0,14% so với cùng kỳ năm 2024, trong đó hàng thủy sản giảm 1,74% và tăng 2,97%; hàng rau quả giảm 0,67% và tăng 0,36%; xăng dầu các loại giảm 2,8% và giảm 13,55%; cao su giảm 8,04% và giảm 1,08%; gỗ và sản phẩm gỗ tăng 0,14% và giảm 0,93%; sắt, thép tăng 3,69% và giảm 3,56%; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện tăng 2,95% và tăng 1,05%.

Tính chung 9 tháng năm 2025, TOT tăng 3,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, cao su tăng 4,94%; hàng thủy sản tăng 3,88%; hàng rau quả tăng 3,36%; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện tăng 2,76%; gỗ và sản phẩm gỗ giảm 0,19%; sắt, thép giảm 4,46%; xăng dầu các loại giảm 13,4%.

TOT 9 tháng năm 2025 tăng so với cùng kỳ năm trước do chỉ số giá xuất khẩu hàng hóa có mức tăng cao hơn mức tăng của chỉ số giá nhập khẩu hàng hóa, phản ánh Việt Nam đang ở vị trí thuận lợi khi giá hàng xuất khẩu có lợi thế hơn so với giá hàng nhập khẩu./.

[1] CPI sau khi loại trừ lương thực, thực phẩm tươi sống, năng lượng và mặt hàng do Nhà nước quản lý bao gồm dịch vụ y tế và giáo dục.

[2] Chỉ số giá xuất khẩu hàng hóa so với chỉ số giá nhập khẩu hàng hóa.


Trường học nơi biên cương - từ chủ trương lớn đến hành động cụ thể

Thực hiện chủ trương lớn của Bộ Chính trị, hôm nay 9/11, 100 trường phổ thông nội trú liên cấp tại các xã biên giới được khởi công đồng loạt, nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực và chăm lo đời sống học sinh, giáo viên vùng biên. Đây là bước đi quan trọng, góp phần thu hẹp khoảng cách vùng miền, củng cố quốc phòng - an ninh và xây dựng tương lai bền vững cho các thế hệ trẻ nơi biên cương. (09/11/2025)

Một tầm nhìn mới cho tài chính công Việt Nam

Phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 14 khóa XIII, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh một định hướng chiến lược có ý nghĩa cải cách sâu sắc: "Tài chính công được phân bổ theo kết quả, theo đặc điểm riêng của địa phương". (08/11/2025)

Chuyển đổi số trong nông nghiệp: Tiền đề đưa nông sản Lai Châu ra thị trường thế giới

Một vài năm trước, khái niệm "bán hàng online" còn xa lạ với phần lớn bà con. Nhưng giờ, những người phụ nữ vùng cao đã biết cách mở điện thoại, tự quay video, giới thiệu sản phẩm nông sản của mình trên các nền tảng số. Từ chợ phiên truyền thống, người dân bước vào không gian thương mại điện tử-nơi khách hàng có thể đến từ Hà Nội, Đà Nẵng, hay thậm chí là Nhật Bản. (07/11/2025)

THỊ TRƯỜNG HÀNG HÓA: Giá cà phê tăng mạnh, dầu WTI rơi khỏi ngưỡng 60 USD/thùng

Cà phê tiếp tục là tâm điểm chú ý của thị trường hàng hóa trong phiên ngày 5/11, khi giá Arabica vượt mốc 9.000 USD/tấn, tiệm cận đỉnh thiết lập hồi giữa tháng 10. Ngược lại, tâm lý thận trọng bao trùm thị trường năng lượng khi cả 5 mặt hàng đồng loạt giảm giá. Kết phiên, lực mua mạnh ở nhiều mặt hàng chủ chốt đã giúp chỉ số MXV-Index nhích nhẹ 0,2%, lên 2.340 điểm. (06/11/2025)

Thống kê sát thực tiễn phục vụ xây dựng văn kiện Đại hội Đảng bộ các cấp

Sáng 24/6, Bộ Tài chính tổ chức Hội nghị triển khai, hướng dẫn xây dựng các chỉ tiêu kinh tế - xã hội phục vụ xây dựng văn kiện Đại hội Đảng bộ cấp tỉnh, cấp xã nhiệm kỳ 2025 - 2030. (24/06/2025)

Việt Nam chủ động lộ trình chuyển đổi logistics bền vững

Với việc đăng cai FIATA World Congress 2025, Việt Nam đang khẳng định vai trò chủ động trong chuyển đổi logistics bền vững. Logistics xanh không chỉ là trách nhiệm mà còn là lợi thế cạnh tranh dài hạn. (19/06/2025)

Xem thêm