Lực lượng lao động, số người có việc làm và thu nhập bình quân tháng của người lao động trong quý III/2025 đều tăng so với quý trước và tăng so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ thiếu việc làm giảm so với quý trước và giảm so với cùng kỳ năm trước. Tính chung chín tháng năm 2025, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên là 53,1 triệu người, tăng 556,3 nghìn người so với cùng kỳ năm trước; lao động có việc làm là 52,0 triệu người, tăng 552,3 nghìn người; tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động là 2,22% và tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động là 1,65%.

1. Lực lượng lao động

Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước quý III/2025 ước tính là 53,3 triệu người, tăng 254,5 nghìn người so với quý trước và tăng 583,6 nghìn người so với cùng kỳ năm trước; tỷ lệ tham gia lực lượng lao động quý III/2025 là 68,6%, tăng 0,1 điểm phần trăm so với quý trước và không đổi so với cùng kỳ năm trước. Tính chung chín tháng năm 2025, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên là 53,1 triệu người, tăng 556,3 nghìn người so với cùng kỳ năm trước; tỷ lệ tham gia lực lượng lao động là 68,4%, giảm 0,2 điểm phần trăm.

Tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ quý III/2025 là 29,5%, tăng 0,4 điểm phần trăm so với quý trước và tăng 1,0 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Tính chung chín tháng năm 2025, tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ là 29,1%, tăng 1,0 điểm phần trăm so cùng kỳ năm trước, điều này cho thấy chất lượng nguồn lao động đang dần được nâng cao.

2. Lao động có việc làm

Lao động có việc làm quý III/2025 là 52,3 triệu người, tăng 261,3 nghìn người so với quý trước và tăng 580,8 nghìn người so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực thành thị là 21,1 triệu người, tăng 897,1 nghìn người so với quý trước và tăng 1.060,2 nghìn người so với cùng kỳ năm trước; khu vực nông thôn là 31,2 triệu người, giảm 635,8 nghìn người và giảm 479,4 nghìn người.

Xét theo khu vực kinh tế, lao động có việc làm quý III/2025 trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản là 13,4 triệu người, chiếm 25,6%; khu vực công nghiệp và xây dựng là 17,5 triệu người, chiếm 33,5%; khu vực dịch vụ là 21,4 triệu người, chiếm 40,9%.

Tính chung chín tháng năm 2025, lao động có việc làm là 52,0 triệu người, tăng 552,3 nghìn người so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực thành thị là 20,4 triệu người, tăng 644,8 nghìn người so với cùng kỳ năm trước; khu vực nông thôn là 31,6 triệu người, giảm 92,5 nghìn người.

Xét theo khu vực kinh tế, lao động có việc làm chín tháng năm 2025 trong khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản là 13,4 triệu người, chiếm 25,8% và giảm 263,7 nghìn người so với cùng kỳ năm trước; khu vực công nghiệp và xây dựng là 17,4 triệu người, chiếm 33,4% và tăng 318,1 nghìn người; khu vực dịch vụ là 21,2 triệu người, chiếm 40,8% và tăng 497,9 nghìn người.

Nhìn chung, lao động có việc làm có xu hướng tăng nhưng thị trường lao động phát triển chưa bền vững khi số lao động có việc làm phi chính thức chiếm tỷ trọng lớn. Số lao động có việc làm phi chính thức chung (bao gồm cả lao động làm việc trong hộ nông, lâm nghiệp và thủy sản)[1] quý III/2025 là 32,6 triệu người, chiếm 62,4% trong tổng số lao động có việc làm, giảm 1,1 điểm phần trăm so với quý trước và giảm 1,5 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước.

Tính chung chín tháng năm 2025, tỷ lệ lao động có việc làm phi chính thức là 63,4%, giảm 1,2 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực thành thị là 47,6%, giảm 1,7 điểm phần trăm; khu vực nông thôn là 73,6%, giảm 0,6 điểm phần trăm; nam là 66,7%, giảm 1,1 điểm phần trăm và nữ là 59,6%, giảm 1,5 điểm phần trăm. Mặc dù tỷ lệ việc làm phi chính thức vẫn ở mức cao, nhưng xu hướng giảm cho thấy thị trường lao động đang dần mở rộng cơ hội việc làm theo hướng chính thức.

3. Thiếu việc làm trong độ tuổi lao động[2]

Số người thiếu việc làm trong độ tuổi lao động quý III/2025 là 696,5 nghìn người, giảm 102,7 nghìn người so với quý trước và giảm 166,9 nghìn người so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động quý III/2025 là 1,50%, giảm 0,23 điểm phần trăm so với quý trước và giảm 0,37 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực thành thị là 1,26%; khu vực nông thôn là 1,66%.

Tính chung chín tháng năm 2025, số người thiếu việc làm trong độ tuổi lao động là 764,2 nghìn người, giảm 150,6 nghìn người so với cùng kỳ năm trước; tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động là 1,65%, giảm 0,34 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước; trong đó tỷ lệ thiếu việc làm khu vực thành thị là 1,24%, giảm 0,04 điểm phần trăm; tỷ lệ thiếu việc làm khu vực nông thôn là 1,92%, giảm 0,54 điểm phần trăm.

4. Thu nhập bình quân của người lao động

Thu nhập bình quân của người lao động quý III/2025 là 8,4 triệu đồng/tháng, tăng 124 nghìn đồng so với quý II/2025 và tăng 748 nghìn đồng so với cùng kỳ năm 2024. Trong đó, thu nhập bình quân của lao động nam là 9,4 triệu đồng/tháng, lao động nữ là 7,2 triệu đồng/tháng; thu nhập bình quân của lao động ở khu vực thành thị là 10,1 triệu đồng/tháng, khu vực nông thôn là 7,2 triệu đồng/tháng.

Tính chung chín tháng năm 2025, thu nhập bình quân của người lao động là 8,3 triệu đồng/tháng, tăng 10,0%, tương ứng tăng 756 nghìn đồng so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, thu nhập bình quân của lao động nam là 9,3 triệu đồng/tháng, lao động nữ là 7,1 triệu đồng; thu nhập bình quân của lao động ở khu vực thành thị là 10,0 triệu đồng/tháng, khu vực nông thôn là 7,2 triệu đồng/tháng.

5. Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động[3]

Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động quý III/2025 là 2,22%, giảm 0,02 điểm phần trăm so với quý trước và giảm 0,01 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực thành thị là 2,73%; khu vực nông thôn là 1,86%.

Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động chín tháng năm 2025 là 2,22%, giảm 0,04 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực thành thị là 2,53%; khu vực nông thôn là 2,00%.

Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên (từ 15-24 tuổi) quý III/2025 là 9,03%, tăng 0,84 điểm phần trăm so với quý trước và tăng 1,30 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên khu vực thành thị là 12,42%; khu vực nông thôn là 6,86%. Trong quý III/2025, cả nước có khoảng 1,6 triệu thanh niên (từ 15-24 tuổi) không có việc làm và không tham gia học tập, đào tạo, chiếm 11,5%. Tỷ lệ thanh niên không có việc làm và không tham gia học tập, đào tạo ở khu vực nông thôn là 13,0%, khu vực thành thị là 9,5%; nữ thanh niên không có việc làm và không tham gia học tập, đào tạo là 13,3%; nam là 9,8%.

Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên (từ 15-24 tuổi) chín tháng năm 2025 là 8,38%, tăng 0,47 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên khu vực thành thị là 11,24%, tăng 1,68 điểm phần trăm; khu vực nông thôn là 6,75%, giảm 0,30 điểm phần trăm.

6. Tỷ lệ lao động không sử dụng hết tiềm năng[4]

Tỷ lệ lao động không sử dụng hết tiềm năng của Việt Nam thường dao động ở mức 4,0%. Tỷ lệ này tăng rất nhanh từ thời điểm quý I/2020 và đạt mức cao kỷ lục là 10,4% vào quý III/2021 do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19. Quý III/2025, tỷ lệ lao động không sử dụng hết tiềm năng là 3,4% (tương ứng khoảng 1,83 triệu người).

Tỷ lệ lao động không sử dụng hết tiềm năng quý III/2025 của khu vực thành thị là 3,5% và khu vực nông thôn là 3,4%. So với quý trước, tỷ lệ này ở khu vực thành thị giảm 0,4 điểm phần trăm và khu vực nông thôn giảm 0,5 điểm phần trăm.

Tính chung chín tháng năm 2025, tỷ lệ lao động không sử dụng hết tiềm năng là 3,7%, giảm 0,6 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực thành thị là 3,6% giảm 0,2 điểm phần trăm; khu vực nông thôn là 3,8%, giảm 0,8 điểm phần trăm.

7. Lao động làm công việc tự sản, tự tiêu

Lao động làm công việc tự sản tự tiêu quý III/2025 là 3,8 triệu người, giảm 72,5 nghìn người so với quý trước và giảm 76,6 nghìn người so với cùng kỳ năm trước.

Tính chung chín tháng năm 2025, lao động làm công việc tự sản tự tiêu là 3,8 triệu người, giảm 83,4 nghìn người so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, lao động nữ chiếm 62,7%; lao động ở khu vực nông thôn chiếm 87,0%.

[1] Lao động có việc làm phi chính thức chung (bao gồm cả lao động làm việc trong khu vực hộ nông, lâm nghiệp và thủy sản) là những người có việc làm và thuộc một trong các trường hợp sau: (i) lao động gia đình không được hưởng lương, hưởng công; (ii) người chủ của cơ sở, lao động tự làm trong khu vực phi chính thức (iii) người làm công hưởng lương không được ký hợp đồng lao động hoặc được ký hợp đồng có thời hạn nhưng không được cơ sở tuyển dụng đóng bảo hiểm xã hội theo hình thức bắt buộc; (iv) xã viên hợp tác xã không đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc; (iv) lao động trong khu vực hộ nông nghiệp.

[2] Người thiếu việc làm trong độ tuổi lao động gồm những người có việc làm mong muốn làm thêm giờ; sẵn sàng làm thêm giờ; thực tế làm dưới 35 giờ/tuần.

[3] Người thất nghiệp là người từ đủ 15 tuổi trở lên mà trong thời kỳ tham chiếu có đầy đủ cả 03 yếu tố: Hiện không làm việc, đang tìm kiếm việc làm và sẵn sàng làm việc. Tỷ lệ thất nghiệp là tỷ lệ phần trăm giữa số người thất nghiệp so với lực lượng lao động.

[4] Lao động có nhu cầu làm việc nhưng không được đáp ứng đủ công việc (hay còn gọi là lao động không sử dụng hết tiềm năng) bao gồm những người thất nghiệp, thiếu việc làm và một nhóm ngoài lực lượng lao động sẵn sàng làm việc nhưng không tìm việc hoặc có tìm việc nhưng chưa sẵn sàng làm việc ngay. Tỷ lệ lao động không sử dụng hết tiềm năng là tỷ số giữa lao động có nhu cầu làm việc nhưng không được đáp ứng đầy đủ công việc so với tổng số lao động có nhu cầu làm việc trong nền kinh tế.


Trường học nơi biên cương - từ chủ trương lớn đến hành động cụ thể

Thực hiện chủ trương lớn của Bộ Chính trị, hôm nay 9/11, 100 trường phổ thông nội trú liên cấp tại các xã biên giới được khởi công đồng loạt, nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực và chăm lo đời sống học sinh, giáo viên vùng biên. Đây là bước đi quan trọng, góp phần thu hẹp khoảng cách vùng miền, củng cố quốc phòng - an ninh và xây dựng tương lai bền vững cho các thế hệ trẻ nơi biên cương. (09/11/2025)

Một tầm nhìn mới cho tài chính công Việt Nam

Phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 14 khóa XIII, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh một định hướng chiến lược có ý nghĩa cải cách sâu sắc: "Tài chính công được phân bổ theo kết quả, theo đặc điểm riêng của địa phương". (08/11/2025)

Chuyển đổi số trong nông nghiệp: Tiền đề đưa nông sản Lai Châu ra thị trường thế giới

Một vài năm trước, khái niệm "bán hàng online" còn xa lạ với phần lớn bà con. Nhưng giờ, những người phụ nữ vùng cao đã biết cách mở điện thoại, tự quay video, giới thiệu sản phẩm nông sản của mình trên các nền tảng số. Từ chợ phiên truyền thống, người dân bước vào không gian thương mại điện tử-nơi khách hàng có thể đến từ Hà Nội, Đà Nẵng, hay thậm chí là Nhật Bản. (07/11/2025)

THỊ TRƯỜNG HÀNG HÓA: Giá cà phê tăng mạnh, dầu WTI rơi khỏi ngưỡng 60 USD/thùng

Cà phê tiếp tục là tâm điểm chú ý của thị trường hàng hóa trong phiên ngày 5/11, khi giá Arabica vượt mốc 9.000 USD/tấn, tiệm cận đỉnh thiết lập hồi giữa tháng 10. Ngược lại, tâm lý thận trọng bao trùm thị trường năng lượng khi cả 5 mặt hàng đồng loạt giảm giá. Kết phiên, lực mua mạnh ở nhiều mặt hàng chủ chốt đã giúp chỉ số MXV-Index nhích nhẹ 0,2%, lên 2.340 điểm. (06/11/2025)

Thống kê sát thực tiễn phục vụ xây dựng văn kiện Đại hội Đảng bộ các cấp

Sáng 24/6, Bộ Tài chính tổ chức Hội nghị triển khai, hướng dẫn xây dựng các chỉ tiêu kinh tế - xã hội phục vụ xây dựng văn kiện Đại hội Đảng bộ cấp tỉnh, cấp xã nhiệm kỳ 2025 - 2030. (24/06/2025)

Việt Nam chủ động lộ trình chuyển đổi logistics bền vững

Với việc đăng cai FIATA World Congress 2025, Việt Nam đang khẳng định vai trò chủ động trong chuyển đổi logistics bền vững. Logistics xanh không chỉ là trách nhiệm mà còn là lợi thế cạnh tranh dài hạn. (19/06/2025)

Xem thêm